Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương Chín: Niết Bàn

02/04/201108:49(Xem: 3165)
Chương Chín: Niết Bàn

CUỘC ĐỜI CỦA MILAREPA

Đại Thiền Giả Một Đời Thành Phật của Tây Tạng
Một Bản Dịch Mới Từ Tiếng Tây Tạng Bởi Lobsang P. Lhalungpa
Nguyên tác: The Life of Milarepa - A New Translation from the Tibetan
by Lobsang P. Lhalungpa, Arkana, 1993 - Nhà xuất bản Thiện Tri Thức, 2000

PHẦN HAI
CHƯƠNG CHÍN
NIẾT BÀN

Trong thời gian khi những lời này được hoàn thành, có một lama rất giàu và rất có ảnh hưởng là Geshe(1) Tsakpuhwa sống ở Drin. Ban đầu, ông tỏ ra tôn kính Đạo sư. Nhưng về sau, gục ngã bởi ganh tỵ và muốn làm bối rối Đạo sư trước đám đông thí chủ của Ngài, ông giả vờ có những nghi vấn về Pháp và hỏi Ngài nhiều câu hỏi.

Trong tháng đầu tiên của mùa thu năm con Cọp Mộc, Đạo sư được mời đến chủ tọa ở một tiệc cưới ở Drin. Geshe Tsakpuhwa cũng đến dự. Ông lễ lạy, hy vọng Đạo sư đáp lễ lạy lại trước đám đông tề tựu. Đạo sư không hề lễ lạy trước người nào, cũng không lạy đáp lễ chỉ trừ với lama của Ngài. Và theo thói quen Ngài không lạy trả.

Vị Geshe nghĩ, “Chà! Một vị Thầy học thức như ta đã thi lễ với một kẻ dốt nát ngu đần vậy mà không được đáp lễ! Ta bắt ông ta phải trả giá cho sự mất mặt này.” Và cầm một bản văn về luận lý học Phật giáo, ông nói, “Đạo sư, mong Ngài tốt lòng xóa sạch sự mù mờ của tôi và giải thích điều này cho tôi theo từng chữ.”

Đạo sư trả lời, “Ông biết rất rõ ý nghĩa theo ý niệm của bản văn này. Nhưng ý nghĩa tâm linh thật sự chỉ tìm ra được khi buông bỏ Tám Phản Ứng Thế Gian và bản ngã, qua sự hủy diệt những tri giác sai lầm về thực tại bằng cách chứng ngộ một vị nhất như của sanh tử và niết bàn, và qua thiền định trong đơn độc núi non. Ngoài việc ấy ra, biện luận trên ngôn từ, suy đoán văn mạch là hoàn toàn vô ích nếu người ta không thực hành Pháp. Tôi không bao giờ học lý luận. Tôi không biết gì về nó và nếu tôi đã học, thì bây giờ tôi cũng đã quên mất rồi. Tôi sẽ nói với ông tại sao. Hãy nghe bài ca này :

“Con lễ lạy trước Marpa Dịch Giả,
Xin Ngài ban phước và giữ cho con ở ngoài tranh luận.
Ân sủng của lama thấm nhuần tâm tôi,
Tôi không bao giờ bị những phóng dật hàng phục.
Đã thiền định về từ và bi,
Tôi đã quên mất sự khác biệt giữa mình và người khác.
Đã thiền định về lama tôn quý của tôi,
Tôi đã quên mất ai là người thanh danh quyền lực.
Đã thiền định thường trực về yidam bổn tôn,
Tôi đã quên mất thế giới thô trược của những giác quan.
Đã thiền định về giáo huấn của truyền thống bí mật,
Tôi đã quên mất những sách vở biện chứng.
Đã an trú trong tánh Giác trinh nguyên,
Tôi đã quên mất những ảo tưởng của vô minh sanh tử.
Đã thiền định về bản tánh của tâm thức là Ba Thân,
Tôi đã quên mất tất cả mọi mong cầu và sợ hãi.
Đã thiền định về bản tánh của đời này và đời sau,
Tôi đã quên mất nỗi sợ về sanh và tử.
Đã nếm những niềm vui của đơn độc,
Tôi đã quên mất nhu cầu làm vừa lòng bè bạn họ hàng.
Đã hội nhập giáo pháp vào dòng tâm thức,
Tôi đã quên mất việc dấn mình vào những cuộc luận chiến giáo điều.
Đã thiền định về cái không sanh, không diệt và không trụ,
Tôi chẳng còn quan tâm gì đến mọi tướng hình quy ước.
Đã thiền định về những hiện tượng như là Pháp thân,
Tôi đã quên mất tất cả mọi hình thức thiền định.
Đã an trụ trong trạng thái tự nhiên không thoái hóa,
Tôi đã quên mất những kiểu cách đạo đức giả vờ.
Đã sống trong khiêm hạ đơn sơ của thân và tâm,
Tôi đã quên mất sự kiêu mạn và khinh thường của người vĩ đại.
Đã xây dựng một ngôi chùa không hình tướng trong thân,
Tôi đã quên mất ngôi chùa bằng gạch đá ở bên ngoài.
Đã dung nhiếp tinh túy nội dung hơn là câu, chữ
Tôi đã quên mất làm thế nào để giỡn cợt bằng ngôn từ.
Vì ông là một Đạo sư, hãy tự mình giải thích văn bản.”

Ngài nói như thế.

Vị Geshe tiếp tục, “Điều này có thể là cách của nhà ẩn tu, nhưng nếu tôi phải thách thức nó bằng những luận cứ giáo nghĩa của tôi, thì những lời thuyết giảng của ngài chẳng đi đến đâu. Tôi đã hy vọng ngài là một người cao cả. Đấy là vì sao tôi đã lễ lạy ngài.”

Những lời này không làm vừa lòng những thí chủ có mặt. Họ đồng thanh lên tiếng, “Đạo sư Geshe, dầu ngài học bao nhiêu thì cũng có nhiều người như ngài trên thế gian này. Nhưng ngài không bằng Đạo sư, thậm chí chưa bằng một lỗ chân lông trên thân Đạo sư. Ngài hãy chủ tọa và im lặng. Hãy làm giàu thêm càng nhiều càng tốt, vì ngài chẳng có thậm chí hương thơm nào của Đạo.”

Mặc dù càng giận thêm, vị Geshe không thể phản kháng vì mọi người đều ủng hộ Milarepa. Bộ mặt của ông tối sầm lại và ông nghĩ, “Milarepa hành động và nói năng bỡn cợt như một gã điên chẳng biết cái gì. Với những lời nói dối và sự mạo danh của ông ta, ông ta đã hạ thấp, làm biến chất Phật pháp, và sống trên những đồ cúng dường có được do lừa bịp. Ta, người sở đắc nhiều kiến thức và giàu có, thế lực nhất vùng, bây giờ lại bị xem còn kém hơn một con chó trong những vấn đề đạo lý. Ta phải làm một cái gì đối với chuyện này.”

Rồi ông trộn một ít thuốc độc với sữa đông. Hứa với cô hầu thiếp của mình là sẽ cho một viên ngọc bích lớn, ông bảo đem món thuốc độc đến Động Drin, nơi Đạo sư đang trú ngụ.

Đạo sư biết rằng những đệ tử cao cấp nhất của Ngài đã giác ngộ và dù Ngài không dùng thuốc độc, thời chết của Ngài cũng đã đến. Ngài cũng biết rằng, trừ phi người đàn bà được cho viên ngọc trước khi Ngài uống thuốc độc, còn không thì cô sẽ không bao giờ có được nó. Thế nên Ngài nói với cô, “Ta sẽ không uống cái này ngay bây giờ. Sau này hãy đem nó đến, lúc đó ta sẽ uống.”

Tự nhủ Đạo sư đã nghi ngờ cô, người đàn bà lo lắng, và hổ thẹn, trở về Geshe Tsakpuhwa.

Cô nói, “Nhờ sự thấu thị của ông ta, Đạo sư nghi ngờ tôi và từ chối món sữa.”

Vị Geshe trả lời, “Nếu thực sự ông ta có thấu thị, ông ta đã không nói cô mang nó trở lại. Ông ta đã có thể bắt cô uống thử trước. Rõ ràng ông ta không có thấu thị gì đâu. Hãy nhận lấy viên ngọc bích này. Hãy đến kiếm Đạo sư và bảo đảm ông ta sẽ uống thuốc độc.”

Ông đưa cô viên ngọc bích và cô trả lời, “Ai cũng tin ông ấy có thấu thị, điều này chắc chắn phải có thật. Thế nên ông ta không uống ngay, và em tin chắc ông ta sẽ không dùng nó bây giờ đâu. Hơn nữa, em cũng sợ phải làm việc đó. Em sẽ không đi đâu ! Em không muốn viên ngọc của anh nữa !”

Vị Geshe nói, “Đám dân thường tin ông ta có thần thông là bởi vì họ không đọc kinh điển và vì họ bị lạc đường vì những lời nói dối của ông ta. Trong các sách của ta, những người có thấu thị không phải như vậy. Ta bảo đảm với cô rằng ông ta không có thấu thị. Một khi ta đã thấy bằng chứng rằng cô đã đưa cho ông ta món uống, chúng ta sẽ cưới nhau. Chúng ta đã sống chung một thời gian lâu, và như người ta vẫn thường nói, không có chọn lựa gì nhiều giữa ăn ít tỏi và nhiều tỏi, vì vẫn có mùi tỏi. Ngoài việc có được viên ngọc bích này, cô sẽ được tin tưởng để giao cho chăm sóc tất cả tài sản của ta, cả ở trong nhà và ngoài nhà, và chúng ta sẽ chia xẻ với nhau tất cả niềm vui nỗi buồn và là một gia đình. Thế nên hãy cố gắng hết sức.”

Hy vọng vào những lời hứa hẹn này, cô lại trộn ít thuốc độc vào sữa đông và đem nó đến cho đạo sư, Ngài hiện đang ở Trode Tashigang. Đạo sư mỉm cười và cầm lấy cái bình trong tay. Cô nghĩ, “Vị Geshe quả là đúng, ông ta có vẻ không có thấu thị.” Ngay khi cô nghĩ như vậy, Đạo sư nói với cô, “Như vậy con đã được cho viên ngọc bích để trả công con mang đến rồi chứ ?”

Quá xúc động, cô sụp lạy và nói với một giọng thổn thức và run rẩy, “Con đã có viên ngọc, nhưng con xin Ngài, chớ dùng món uống này. Xin hãy đưa lại con. Con là một người xấu ác không biết suy nghĩ.”

“Con sẽ làm gì với nó ?”

“Chính con sẽ uống nó vì con là một kẻ tội lỗi.”

Đạo sư tiếp tục :

“Trước hết, ta quá nhiều từ bi để cho con uống thứ sữa này. Việc ấy xảy ra sẽ xâm phạm tinh túy của giới luật Bồ tát và sẽ đem lại những hậu quả tâm linh nặng nề. Sứ mạng của ta đã hoàn thành và cuộc đời ta sắp kết thúc. Đã đến thời ta đi đến một cõi khác. Bản thân món đồ uống chẳng làm hại ta chút nào đâu, bởi thế ta có uống hay không đều không thành vấn đề. Nhưng nếu lần đầu mà ta uống, con sẽ không nhận được viên ngọc bích như cái giá trả cho tội lỗi của con. Bây giờ, viên ngọc đã nằm trong tay con, ta sẽ uống, vừa để thỏa mãn cho mong muốn của Geshe vừa bảo đảm cho con sẽ giữ được viên ngọc.

“Còn về những lời hứa khác của Geshe, chúng sẽ không được đáp ứng đâu. Ông ấy nói nhiều điều về hành trạng của ta. Không có gì thật trong điều ông ấy nói, thế nên cả hai người sẽ kinh nghiệm sự hối hận khủng khiếp. Khi điều đó xảy ra, để con tự tịnh hóa chính mình, hãy cố gắng tự chứng ngộ trong đời này. Thậm chí để cứu vớt cuộc đời con, con chớ phạm vào những lỗi lầm tương tự nữa. Hãy kêu cầu ta và các đứa con tâm linh của ta với một tấm lòng thành thật. Cả con và vị Geshe đã luôn luôn tự cắt lìa mình với hạnh phúc và đi tìm sầu não. Bây giờ ta sẽ liệu có thể tịnh hóa cho con khỏi nghiệp xấu chăng. Hãy chớ nói với ai về việc này khi ta còn sống. Sau đó, mọi người sẽ nghe chuyện này. Dù cho con không thấy bằng mắt cũng không nghe bằng tai mình chân lý trong những lời nói trước kia của ta, hãy nhớ kỹ trong tâm những lời ta nói bây giờ. Sẽ đến lúc con thấy chúng là đúng.”

Nói xong, Ngài uống món thuốc độc.

Khi người đàn bà kể lại tất cả mọi sự cho Geshe Tsak-puhwa, ông ta trả lời, “Không phải mọi lời ông ta nói đều đúng đâu, cũng như không phải mọi thực phẩm đều ăn được. Việc ông ta uống món thuốc độc với ta là đủ rồi. Bây giờ hãy nhớ, giữ miệng cho kín.”

Trong thời gian đó, Đạo sư nói, “Những người vùng Nyanang và Dingri, và mọi thí chủ và tín đồ, hãy sửa soạn một lễ cúng và tề tựu quanh ta. Hãy để cho mọi người khác trong vùng chưa từng thấy ta nhưng muốn gặp ta cũng được đến.”

Tất cả những đệ tử loan báo lời này đi. Nhiều người nghe những lời nói ấy mà không tin Đạo sư đã nói như vậy. Nhưng những cư sĩ và đệ tử học Pháp cũng như những người khác muốn gặp Đạo sư đều tề tựu ở Chuwar. Rồi trong nhiều ngày Đạo sư nói cho họ về giáo lý nhân quả nghiệp báo trên cấp độ bình thường và về bản tính nền tảng của thực tại trên một cấp độ cao hơn.

Suốt thời gian ấy, vài đệ tử chính thấy rõ ràng bầu trời đông đầy chư thiên đến nghe lời dạy của Đạo sư. Nhiều người khác cảm nhận một cách trực giác bầu trời và mặt đất có đầy chư thiên và người nghe giáo pháp, họ kinh nghiệm một trạng thái đại hoan hỷ. Trước cái nhìn của mỗi người, một mống cầu vồng treo lơ lửng trong bầu trời trong trẻo. Những đồ cúng, lọng che và vô số cờ phướn hiện hình trong những đám mây ngũ sắc, đầy cả không trung. Có một trận mưa hoa năm màu. Nhạc trời du dương và mùi hương lạ lan tỏa.

Những đệ tử thấp hơn thấy những hiện tượng kỳ diệu này thưa hỏi Đạo sư, “Chúng con có cảm tưởng trời đất đầy cả trời người đến nghe Pháp, và chúng con ngập trong niềm vui. Đâu là nguyên nhân của những kỳ diệu này ?”

Đạo sư trả lời, “Những đệ tử loài người tốt đẹp như các con, những thiền giả giác ngộ và những cư sĩ sùng tín thì ít, nhưng có nhiều chư thiên nghe Pháp đầy khắp không gian và họ cúng dường ta năm loại vật phẩm của niềm vui giác quan,(2) và chính điều này làm các con thấy hoan hỷ. Đây là lý do có những dấu hiệu xung quanh các con, mà một số trong các con thì cảm nhận và số khác thì thấy biết trực tiếp.”

Họ hỏi, “Vậy thì tại sao tất cả chúng con lại không thấy được những dấu hiệu ?”

“Trong hàng chư thiên có nhiều vị đã đạt đến những trạng thái Thức Tỉnh của “không trở lại” (Bất Lai : A na hàm) và những người khác đã đạt đến cái thấy thấu suốt thức tỉnh. Người ta cần cái nhìn thấy vi tế để có thể thấy được chư thiên, hay người ta cần sự ngưỡng vọng cao độ đối với đức hạnh và tỉnh giác, và một tâm thức không nhiễm ô bởi mê lầm và cấu uế. Nếu các con có thể thấy những thiên chủ, các con sẽ thấy thiên chúng của họ. Nếu các con nỗ lực theo cách ấy, các con sẽ thấy bản tánh của chính tâm thức các con, nó chính là vị thiên tối hậu và tối thượng.” Và Ngài hát Bài Ca Làm Thế Nào Thấy Chư Thiên này :

“Tôn kính Marpa, Bậc Đại Bi.
Xin ban phước cho dòng của Ngài, mãi mãi cao quý.

Những thính chúng cõi trời
Đến từ cõi hân hoan của chư thiên
Để nghe ẩn sĩ Milarepa,
Đầy khắp cả bầu trời vô hạn.

Trừ những ai có ngũ nhãn,(3)
Còn người thường không thể thấy chư thiên.
Thầy thấy tất cả họ thật rõ ràng.
Nhưng người thường chỉ thấy những đồ cúng dường của họ.

Bầu trời đầy những cầu vồng và ánh sáng;
Một cơn mưa hoa trời rơi rơi;
Hương thơm phủ ngát không khí và nhạc du dương trổi.

“Niềm vui và hạnh phúc ngập đầy trong tất cả những người có mặt ở đây là nhờ lòng bi của những lama dòng Kagyupa. Những người nào trong các con, dưới sự bảo bọc của các ngài, muốn thấy chư thiên và dakini đang nghe thầy thuyết pháp, trước hết hãy lắng nghe bài ca của thầy :

“Do nghiệp tích tập trong nhiều đời trước
Các con đã thích cái xấu từ ngày mới sanh ra.
Các con không khát khao đức hạnh,
Đến nỗi tuổi già tâm thức thành bất tịnh.
Chắc chắn các con sẽ gặt quả của những hành động của các con.
Nếu các con tự hỏi những tội lỗi của các con có thể tịnh hóa không,
Thì chính sự khát khao đức hạnh xóa sạch những nhiễm ô.
Nhưng ai biết mà vẫn phạm vào việc xấu ác
Chỉ có được một miếng thức ăn với cái giá của khổ đau.

Người nào làm người dẫn đường cho những người khác
Trong khi tự mình không biết phải đi đâu,
Chỉ tự hại mình và những người khác.

Nếu các con thành thật muốn không có khổ đau,
Hãy không có tất cả ý định xấu với những chúng sanh khác.

Trong sự sùng mộ lama và yidam của các con,
Hãy ăn năn sám hối những tội lỗi đã làm.
Hãy thệ nguyện không bao giờ tái phạm.
Đây là giáo huấn để tịnh hóa chính mình.

Hầu hết những người tội lỗi đều khôn ngoan,
Họ không có mục tiêu cao cả và buông lung cho họ.
Nếu họ không có sự thúc đẩy tâm linh,
Điều đó chứng tỏ họ vẫn trĩu nặng bởi nhiễm ô triền phược.

Hãy cố gắng không ngừng cho sự tịnh hóa,
Xóa tan vô minh và tích tập công đức.
Nếu các con làm như thế, các con không chỉ thấy
Chư thiên mộ Pháp đến đây nghe,
Mà các con còn thấy biết trong chính mình
Pháp thân, vị trời linh thánh nhất và cao tột nhất trong tất cả chư thiên.
Nếu các con thấy Cái Ấy, các con cũng thấy Tất Cả.
Thấu suốt toàn bộ sanh tử và niết bàn vốn là Tự Do Tối Hậu.
Và các con sẽ vĩnh viễn thoát khỏi vòng vận hành của nghiệp.”

Trong những vị thính pháp trời và người tụ hội ở nơi đó, những vị phát triển cao nhất chứng ngộ được thực nghĩa của Pháp thân. Hàng kém phát triển cao thì kinh nghiệm được tánh giác bất nhị trong một trạng thái sáng tỏ và hoan hỷ, và như vậy được đặt vào con đường giải thoát. Trong những người kém phát triển nhất, không có ai không phát nguyện thực hành Bồ đề tâm.

Đạo sư lại nói với đại chúng, “Hỡi các con, nhà sư và đệ tử, trời và người, và tất cả những ai tụ hội ở đây, sự cùng nhau đến đây của chúng ta để cầu Pháp là do những nguyện vọng tâm linh trong những đời trước của chúng ta. Giờ đây thầy đã già, thầy không biết thầy sẽ thấy được các con trong bao lâu nữa. Các con hãy làm hết sức mình để thực hành giáo pháp thầy đã trao cho các con. Chớ có hao phí thời gian. Nếu các con theo những giáo huấn của thầy, các con sẽ là những người đầu tiên trong những đệ tử của thầy được sanh vào cõi Tịnh Độ của Phật quả của thầy. Thế nên hãy vui mừng !” Ngài nói như thế.

Những người sùng mộ cư sĩ đến từ Nyanang tự hỏi có phải những lời nói này của Đạo sư đã chỉ ra ý định của Ngài lìa bỏ thế giới để làm lợi lạc cho chúng sanh ở những cõi khác. Họ nhiệt thành cầu xin Ngài, nếu như vậy, sẽ rời bỏ để đi vào Cõi Giới của Thực Tại Tối Hậu ở Nyanang. Nếu không phải như vậy, họ thiết tha thỉnh cầu Ngài trở lại Nyanang một lần nữa. Khóc lóc thỉnh cầu Ngài và tràn ngập lòng tôn kính nồng nhiệt, họ nắm chặt bàn chân ngài, thốt lên những tiếng kêu than nức nở. Những tiùn đồ của vùng Dingri cũng tận tình cầu xin Đạo sư đến xứ họ.

Đạo sư nói, “Ta đã già, và ta sẽ không đi Nyanang hay Dingri. Ta sẽ chờ cái chết của ta gần Drin và Chuwar. Hãy tăng cường sự khát khao giải thoát của các con. Chúng ta sẽ gặp lại trong Cõi Giới của Thực Tại Tối Hậu.”

“Nếu Đạo sư không đến, xin ngài hãy ban phước mỗi nơi Ngài đã thăm viếng để cho chúng được hòa bình và thịnh vượng. Mong Ngài ban phước cho xứ sở để cho nó có được sự hài hòa tâm linh. Mong Ngài ban phước cho tất cả chúng sanh và những ai đã được gặp Ngài và đã nghe được danh hiệu Ngài và giáo lý của Ngài.”

Đạo sư trả lời, “Ta mang ơn các con về những đồ cung cấp các con đã cho ta từ lòng tôn kính, và ta đã trả ơn cho các con bằng cách từ bi cho các con giáo lý. Là một thiền giả đã thành tựu thần lực đặc biệt để ban phước, ta sẽ ban phước cho tất cả để các con có hòa bình và hạnh phúc suốt đời này lẫn viễn kiếp.” Và Ngài hát bài ca này :

“Con lễ lạy dưới chân Marpa Dịch Giả,
Bậc cha lành bảo bọc tất cả chúng sanh, Người đã thành tựu mục đích của mình.

Hỡi các đệ tử tụ hội nơi đây, hãy lắng nghe ta.
Các con đã tốt lòng với ta,
Và ta đầy lòng bi mẫn cho các con.

Nguyện cho Đạo sư và đệ tử, biết ơn lẫn nhau,
Sẽ gặp lại nhau trong Tịnh Độ của Phật.

Nguyện tất cả những tín đồ và thí chủ có mặt ở đây
Có hạnh phúc và cuộc đời trường thọ.

Nguyện những nguyện vọng tâm linh của họ được thành tựu,
Không có tư tưởng tác hại khởi lên.

Nguyện cho vùng này được ban phước,
Nguyện nó thoát khỏi bệnh tật và chiến tranh,
Có được những vụ mùa sung túc và đầy đủ phước lành.
Nguyện những tín đồ luôn luôn tận tình với Pháp.

Nguyện ta sẽ gặp lại trong Cõi Phật Thanh Tịnh
Những ai đã thấy hay đã nghe ta,
Những ai nhớ đến câu chuyện đời ta,
Những ai chỉ nghe kể chuyện hay nghe đến tên ta.
Nguyện những ai thi đua với cuộc đời ta và thiền định,
Những ai hỏi, kể lại hay nghe chuyện đời ta,
Những ai đọc và tôn sùng nó,
Những ai theo gương mẫu của ta trong cuộc đời họ,
Nguyện họ tìm thấy ta trong Cõi Phật Thanh Tịnh vô biên.

Nguyện những người của đời tương lai viễn kiếp,
Nếu họ có thể thiền định
Với khổ hạnh như ta đã thực hành,
Được miễn khỏi mọi chướng ngại và lỗi lầm.

Nguyện những ai thực hành Pháp qua khổ hạnh
Được thu hoạch vô vàn công đức.
Với người khuyến khích những người khác theo con đường này,
Sẽ được vô lượng lòng biết ơn công đức.
Nguyện cho những ai nghe đến câu chuyện ta nhận được những ban phước vô cùng.
Qua ba sự ban phước vô lượng này,
Nguyện những ai chỉ nghe cuộc đời ta được viên thành giải thoát,
Nguyện những ai thiền định về nó sẽ hoàn thành mục đích của họ.

Nguyện những ai thiền định trong những hang động của ta,
Nguyện những ai thờ vài vật dụng ta có,
Nguyện tất cả chúng đem lại hạnh phúc cho bất cứ nơi nào chúng ở.

Nguyện ta ôm trọn tất cả không gian
Như không gian ôm lấy đất, nước, lửa, gió.
Nguyện tám bộ Thiên Long, và những chủ thần địa phương
Không gây chướng ngại và hộ trì Phật pháp.

Nguyện những mong muốn của những tín đồ
Được thành tựu hài hòa với Pháp.
Nguyện tất cả chúng sanh, dù là chúng sanh thấp nhất,
Trong đời đời được giải thoát qua ta.”

Nhận được những ban phước này, những đệ tử tại gia rất hoan hỷ. Những người ở Nyanang và Dingri còn sợ rằng Đạo sư sắp tịch, đến cầu xin ngài ban phước và hiến mình vào Pháp như chưa từng có trước đây. Rồi mỗi người trở về quê cũ và tức thời cầu vồng và các linh kiến khác biến mất. Dân chúng vùng Drin được Repa Ánh Sáng Bình An và những đại đệ tử khác ủng hộ, cầu khẩn Đạo sư đừng bỏ họ. Đạo sư bèn đến sống ở Drin trong một cái thất được dựng cho Ngài trên đỉnh một tảng đá lớn, có hình thể giống như đầu một con rắn, gọi là Rekpa Dukchen (Độc Khi Chạm Vào), để hàng phục thiên long Dolpa Nakpo (Đao Phủ Đen). Tại đó, Ngài dạy cho dân chúng vùng Drin. Chấm dứt thời thuyết pháp Đạo sư nói, “Các nhà sư, nếu có thầy nào có những nghi ngờ thắc mắc trong những giáo huấn của ta, thì hãy hỏi ngay đi, bởi vì không chắc ta sẽ còn sống lâu đâu.”

Những nhà sư trước hết cử hành một lễ cúng và rồi nhận những giáo huấn trọn vẹn. Trong đám đông các nhà sư bao quanh Đạo sư, có Repa vùng Digom và Repa vùng Seban bạch hỏi rằng, “Qua những lời dạy của Thầy, chúng con không tin Thầy sẽ sớm vào niết bàn. Có lẽ cuộc đời Thầy chưa chấm dứt.”

“Đời thầy đã hết và sứ mạng thầy đã hoàn thành. Những dấu hiệu của cái chết của thầy sẽ sớm trở nên rõ ràng.”

Vài ngày sau, Đạo sư biểu lộ những dấu hiệu bệnh. Repa vùng Ngandzong nói với Ngài, “Thưa Đạo sư, chúng con, những đệ tử của Thầy sẽ làm lễ cúng cho những lama, yidam, dakini và những thần hộ pháp. Chúng con cũng sẽ cử hành lễ trường thọ và đồng thời dâng thuốc thang trị liệu cho Thầy.”

Repa vùng Ngandzong gọi các đệ tử khác giúp ông sửa soạn lễ cúng. Bấy giờ Đạo sư nói với ông :

“Đối với một hành giả ẩn sĩ, bệnh tật thường là một sách tấn cho thực hành tâm linh. Không cử hành lễ nào cả, người hành giả phải chuyển hóa mọi kinh nghiệm của những điều kiện đối nghịch thành sự chứng đắc cao cả và phải có thể đối mặt với bệnh tật và thậm chí cả cái chết. Riêng về phần thầy, Milarepa, theo những giáo huấn của lama bi mẫn Marpa, thầy đã thực hiện mọi nghi thức, nên thầy không cần lễ cúng thứ nhất hay thứ hai. Bởi vì thầy đã chuyển hóa những điều kiện đối nghịch thành những yếu tố thuận lợi, thầy không cần lễ, nghi thức làm hòa hay kêu cầu bằng trống. Những thần linh xấu ác xuất hiện với thầy đã bị hàng phục và chuyển hóa thành những lực lượng bảo vệ để giúp đỡ chúng ta trong việc thực hiện Thần Lực của Hoạt Động Bốn Phần.(4) Thầy không muốn thuốc thang bằng sáu loại cây thuốc, bởi vì bệnh tật của năm độc trong thầy đã trở thành Năm Phương Diện của Tánh Giác Siêu Việt (Năm Trí). Và như thế, thầy không cần thuốc.

“Bây giờ đã tới thời, thân thể tứ đại của thầy được chuyển hóa vào một hình thức vi tế hơn, và tan biến vào một trạng thái hoàn toàn thức tỉnh của tánh Không. Người đời kinh nghiệm những hậu quả của những nhiễm ô cấu uế của họ hiện thành chu kỳ sanh, già, bệnh, chết. Họ không thể tránh khỏi chu kỳ đó bằng thuốc men hay nghi thức. Họ phải đối diện với nó không cách gì thay đổi được. Không có gì có thể làm ngưng dứt chu kỳ đó, quyền lực của vua chúa, những công trạng của các anh hùng, sắc đẹp và phụ nữ, sự thịnh vượng của người giàu có, sự mau mắn của kẻ hèn nhát, sự van nài của người thông thái. Nếu các con biết sợ cái khổ đau này và ước muốn hạnh phúc, thì thầy biết một phương tiện hiệu quả để dẹp bỏ khốn khổ và thành tựu an bình vĩnh phúc.”

“Xin Thầy ban nó cho chúng con.”

“Tốt lắm. Bản chất của sanh tử là như vậy, giàu có đã tích tập phải được phân tán, nhà cửa được xây phải bị hủy hoại, kết hợp phải bị chia lìa, và tất cả cái gì có sanh ra đều phải chết mất. Bởi vì người ta phải chịu đựng hành động của mình không cách gì tránh khỏi, người ta phải buông bỏ những mục đích thế gian, từ bỏ tích tập, xây dựng và kết hợp. Phương thuốc tốt nhất là chứng ngộ chân lý tối hậu của thực tại dưới mệnh lệnh của một Đạo sư giác ngộ. Hơn nữa rồi thầy sẽ có những giáo huấn rất quan trọng cho các con như là chúc thư cuối cùng của thầy. Các con hãy ghi nhớ.”

Repa Ánh Sáng Bình An và Repa vùng Ngandzong tiếp tục cầu xin, “Bạch Đạo sư, nếu Thầy có sức khỏe, Thầy sẽ đáp ứng những mục tiêu của nhiều chúng sanh hơn nữa. Dù Thầy không chấp nhận cho mong muốn của chúng con, chúng con xin cầu khẩn Thầy được thực hiện một lễ cúng theo truyền thống bí mật, và Thầy dùng một ít thuốc, và cũng cho chúng con cầu nguyện cho sự trường thọ của Thầy, để ít nhất chúng con không ân hận.”

Đạo sư trả lời :

“Nếu thời viên tịch của thầy chưa tới, thầy sẽ làm cả hai điều các con yêu cầu. Nhưng cử hành một nghi lễ để Cầu gọi một yidam hầu kéo dài tuổi thọ mà không quan tâm tới lợi lạc của chúng sanh thì cũng giống như mời một ông vua bước xuống ngai để chùi sàn nhà.

“Chớ bao giờ sử dụng phương tiện bí mật của Kim Cương thừa cho những mục tiêu thế gian của các con. Trong hoang vắng núi non, thầy đã không ngừng cử hành những lễ nghi cao tột nhất cho những chúng sanh chưa giác ngộ, thế nên không cần lễ nghi nào khác nữa.

“Bởi vì tâm thức thầy không cách hở chút nào với Pháp Giới Tánh Không Bao Trùm Khắp, thế nên không cần những lời cầu nguyện để sống thọ. Những phương thuốc của Tổ Marpa đã nhổ sạch năm độc ở tận gốc của chúng. Những phương thuốc ấy đã đủ rồi.

“Nhưng nếu các con không có khả năng chuyển những điều kiện đối nghịch thành thuận lợi cho việc thành tựu những mục tiêu của các con, và nếu thời ra đi của các con chưa đến, bây giờ dùng thuốc men trị bệnh và áp dụng những cách chữa lành tâm linh để vượt qua những chướng ngại thì không có gì sai lầm cả, bởi vì một khả năng làm như vậy vẫn còn hiện hữu. Như ngày xưa đức Phật đã đưa tay cho y sĩ Shonnu(5) và dùng thuốc của ông vì nghĩ đến những chúng sanh khổ đau. Nhưng khi thời của Ngài đến, thì dù Ngài là một vị Phật, Ngài cũng ra đi. Thời của thầy cũng đã đến. Đó là lý do tại sao thầy sẽ không dùng thuốc.”

Bấy giờ hai đệ tử Repa thưa hỏi, “Nếu Thầy phải ra đi vì lợi lạc cho những chúng sanh khác, thì chúng con sẽ cử hành những lễ cầu nguyện, lễ an táng và trà tỳ như thế nào ? Chúng con có làm những tượng nhỏ từ tro xương và xây dựng một cái tháp hay không ? Vị nào sẽ dẫn dắt dòng phái truyền thống của chúng con ? Chúng con sẽ làm lễ cúng Thầy hàng năm như thế nào ? Mỗi lễ giỗ chúng con sẽ cúng vật gì ? Chúng con sẽ theo đuổi việc cầu đạo qua nghe, hỏi và thiền định như thế nào ?”

Đạo sư trả lời :

“Nhờ sự dẫn dắt của Marpa Bi Mẫn, thầy đã hoàn thành công cuộc giải thoát. Hoàn toàn không chắc chắn rằng một người ẩn tu đã thức tỉnh, thân ngữ tâm của người đó đã đạt đến trạng thái cao nhất là Pháp thân, sẽ để lại cho đời một xác chết. Vậy thì cần gì làm tượng nhỏ hay xây một cái tháp. Thầy không có chùa chiền hay tu viện, bởi thế không có một trung tâm được xây dựng nào cho Dòng Phái. Hãy nhận lấy núi non cằn cỗi phủ tuyết làm chỗ ở của các con. Hãy xem chúng sanh sáu nẻo là đệ tử của các con và cho họ sự bảo bọc và lòng bi. Thay vì nặn những tượng nhỏ, hãy thiền định bốn thời một ngày. Thay vì xây dựng một cái tháp, hãy khai triển những thấy biết cao hơn về pháp giới và giương cao ngọn cờ thiền định. Cách cúng giỗ hay nhất là có lòng tôn kính đối với lama của mình.

“Về con đường tu hành, hãy từ bỏ tất cả những cái gì làm tăng thêm chấp ngã và những độc bên trong, dầu cho bề ngoài chúng có vẻ tốt đẹp. Ngược lại, hãy thực hành tất cả những cái gì diệt trừ năm độc và giúp đỡ những chúng sanh khác, dù cho bề ngoài những việc ấy có vẻ xấu xa. Điều này thiết yếu tương ưng với Pháp. Dù cho các con có thể học rộng bao nhiêu chăng nữa, nếu các con thiếu kinh nghiệm sâu xa về thực tại và nếu các con biết mà vẫn cố tình dung túng cho những hành vi tai hại, thì các con chỉ ném mình sâu vào những cõi thấp bởi sự tự làm cho mình mê lầm. Bởi vì cuộc đời thì ngắn ngủi và giờ chết không thể biết, hãy hiến mình trọn vẹn cho thiền định. Hãy hành động một cách khôn ngoan và can đảm theo lương tri phân biện bẩm sanh của các con, dù với cái giá của đời mình. Tóm lại, hãy hành động làm sao để các con sẽ không hổ thẹn.

“Nếu các con theo những chỉ thị này một cách cẩn trọng chăm chú, thì dù các con có đi trái với câu chữ của kinh điển, các con sẽ không đi trái với những ý định của chư Phật trong ba đời và cũng sẽ đáp ứng được ước muốn của lão già này. Đó là tinh túy của mọi cái nghe, hỏi và thiền định. Nếu ước nguyện của thầy được thành, thì các con sẽ hoàn thành công việc giải thoát của các con. Ngược lại, mọi cố gắng để thỏa mãn những tham muốn thế gian là vô ích.”

Sau khi nói thế, Ngài hát Bài Ca Chứng Đắc :

“Con lễ lạy dưới chân Marpa Dịch Giả.

Những đệ tử quy tụ nơi đây,
Hãy nghe đây bài ca giáo huấn cuối cùng.
Nhờ lòng bi của Marpa Vách Núi Phía Nam,
Ẩn sĩ già nua Milarepa
Đã hoàn thành toàn bộ công việc của nó.

Tất cả các con, đệ tử và nhà sư,
Nếu các con chú ý đến lời ta,
Các con sẽ hoàn thành trong chính đời này
Công việc vĩ đại cho chính các con và cho những người khác,
Và như thế thành tựu những ý định của chư Phật ba đời và của chính ta.
Ngoài ra tất cả những công việc khác
Đều đi ngược lại với nhu cầu của bản thân và của nhiều người khác,
Và không thỏa ước nguyện của thầy.

Nếu không có sự hướng dẫn của một đạo sư truyền thừa
Có ích gì tìm kiếm thọ pháp nhập môn ?
Nếu không được Pháp và tự tâm hòa lẫn
Có dùng gì sự nhớ thuộc những Tantra ?
Nếu không buông bỏ những mục tiêu thế tục
Có ích gì thiền định theo những giáo huấn chỉ bày ?
Nếu thân, ngữ, tâm không tương ưng với pháp tánh
Tốt đẹp gì những buổi lễ thức nghi ?

Nếu như nhục mạ không như gió thổi trong không
Tốt đẹp gì khi thiền định về nhẫn nhục ?
Nếu không vượt qua tham luyến và ghét bỏ
Có ích gì những dâng cúng, hy sinh ?
Nếu không nhổ tận gốc chấp ngã
Tốt đẹp gì bố thí nọ kia ?
Nếu không nhìn tất cả chúng sanh như cha mẹ
Tốt đẹp gì cai quản một tu viện thênh thang ?

Nếu đức tin không lớn lên trong tâm thức
Có ích gì xây những tháp bên ngoài?
Nếu không thể một ngày bốn thời thiền định
Có ích gì nặn những tượng nhỏ cúng thờ?
Nếu không kêu cầu ta với lòng ngưỡng vọng sâu xa
Tốt đẹp gì khi mỗi năm cúng giỗ?
Nếu không chú ý những giáo huấn của thầy
Tốt đẹp gì khóc than khi thầy chết?
Nếu không sùng kính thầy khi còn sống
Tốt đẹp gì chiêm ngưỡng xác chết của ta?
Nếu không ghê sợ sanh tử và cấp bách giải thoát
Tốt đẹp gì đức hạnh xuất gia?
Nếu không học cách thương yêu những người khác hơn bản thân
Tốt đẹp gì những lời ngọt ngào thương xót?
Nếu không nhổ sạch gốc mê lầm và tham muốn
Lợi lạc gì khi phụng sự lama?
Nếu không nghe những lời ta nói
Tốt đẹp gì khi đệ tử đông đầy.

Hãy vất bỏ mọi hành động vô ích,
Chẳng lợi lạc gì mà chỉ hại các con.
Một ẩn sĩ đã hoàn thành mục đích,
Ta không cần một việc gì thêm.”

Những đệ tử xúc động sâu xa vì những lời dạy này.

Sau đó Đạo sư tỏ ra những triệu chứng bệnh nặng, vì thế Geshe Tsakpuhwa mang một số thịt và bia, và lấy cớ đó để hỏi về sức khỏe của Ngài. Ông nói với Đạo sư, “Thực là đau xót khi một cơn bệnh như thế giáng xuống một vị thánh như Đạo sư. Nếu có thể chia xẻ được, xin Ngài chia bớt nó cho những đệ tử của Ngài. Nếu có cách chuyển nó đi, thì hãy chuyển nó cho một người như tôi chẳng hạn. Nhưng điều đó không thể được, vậy thì nên làm gì ?”

Đạo sư mỉm cười và nói, “Ông biết rất rõ bệnh tôi không phải từ lý do tự nhiên gây ra. Dầu sao đi nữa, bệnh tật nơi một con người bình thường cũng không thể giống như trong một người tu hành. Ta chấp nhận nó như một cơ hội đặc biệt cho sự chuyển hóa bên trong. Ta mang bệnh này như một đồ trang sức.” Nói thế xong, Đạo sư hát :

“Trong Tánh Giác Tối Hậu rỗng nhiên
Sanh tử và niết bàn được thấy biết là một.
Để thấy biết Thực Tại Chân Tánh rốt ráo,
Ta đóng lên mọi sự Đại Ấn của tánh Không.(6)
Đây là tinh túy của cái bất nhị,
Như hư không thản nhiên với chướng ngại.

Bệnh tật, ác ma, tội nghiệp và vô minh
Là những đồ trang sức của ta, ẩn sĩ hiện tiền.
Trong ta, chúng là hệ thống kinh mạch, khí và hạt.
Với ta, bố thí trì giới và những đức hạnh khác
Là một trăm mười hai dấu hiệu của Phật tánh.
Bệnh tật này quá chừng thích hợp với ta;
Ta có thể chuyển nó, nhưng không có lý do gì để làm thế.”

Vị Geshe nghĩ, “Ông ta nghi ngờ mình cho ông ta thuốc độc, nhưng ông ta không chắc. Dù ông ta có lý do để chuyển bệnh tật đi, ông ta cũng không có thể làm được.”

Thế nên ông nói, “Nếu tôi biết gốc bệnh của Đạo sư, và nếu đó là một hồn ma xấu ác, tôi sẽ trục trừ nó. Nếu là một rối loạn về thể xác, tôi sẽ chữa cho ngài. Nhưng tôi không biết ngài có bệnh gì. Thế nên nếu ngài có thể chuyển cơn bệnh của ngài, xin hãy chuyển qua tôi.”

Và Đạo sư nói, “Chúng sanh bị ám chướng bởi con quỷ chấp ngã, đó là con quỷ xấu xa nhất trong tất cả. Chính con quỷ đó gây ra bệnh tật của ta. Ông không thể trừ tà hay chữa thuốc cho ta. Nếu ta chia xẻ cơn bệnh này với ông, ông không thể chịu đựng nó nổi trong chốc lát. Ta sẽ không chuyển nó.”

Vị Geshe nghĩ, “Ông ta không thể chuyển nó. Ông ta đang giả bộ.” Thế nên ông năn nỉ, “Xin hãy chuyển nó cách nào cũng được.”

“Thôi được, ta sẽ không chuyển nó cho ông, mà sẽ chuyển nó vào cánh cửa kia. Hãy cẩn thận chờ xem.”

Và Ngài chuyển nó sang cánh cửa thiền phòng. Lập tức có tiếng răng rắc lớn phát ra, và lay chuyển dữ dội, cánh cửa bắt đầu vỡ ra từng mảnh. Vào lúc đó, Đạo sư có vẻ đã hết bệnh.

Vị Geshe nghi ngờ đây là một trò lừa bịp ảo thuật và nói, “Lạ lùng thật ! Bây giờ xin hãy chuyển cho tôi.”

“Tốt lắm ! Ta sẽ cho Geshe nếm một ít cơn bệnh đó.”

Đạo sư rút cơn bệnh khỏi cánh cửa và chuyển nó cho Tsakpuhwa, ông ta sụp đổ vì đau đớn. Tê liệt và choáng váng, ông sắp chết đến nơi. Rồi Đạo sư lấy lại một phần lớn cơn bệnh và nói, “Ta chỉ cho ông một nửa của cơn bệnh của ta mà ông đã thấy không thể chịu nổi nó.”

Đầy ăn năn vì đã chịu một cơn đau như thế, vị Geshe ném mình khóc lóc dưới chân Đạo sư.

“Ôi Đạo sư Tôn Quý, ôi Thánh nhân, đúng như Ngài dạy, chính cái người bị quỷ ám đã làm điều xấu xa này cho Ngài. Con xin cúng dường nhà cửa, tài sản, mọi thứ con có cho Ngài. Xin Ngài cứu con khỏi những hậu quả của những hành động của con. Con thành tâm cầu xin sự tha thứ của Ngài.”

Milarepa rất bằng lòng và thu hồi phần bệnh còn lại và nói, “Suốt đời ta không hề có ý muốn có nhà cửa, giàu có và tài sản. Giờ ta đang đến gần lúc chấm dứt cuộc đời. Quả là ta không cần chúng, thế nên hãy lấy lại những tặng vật của ông. Chớ bao giờ làm trái với Pháp một lần nữa, dầu với cái giá của cuộc đời mình. Ta sẽ cầu nguyện lama của ta để giữ cho ông khỏi chịu những hậu quả của hành động của ông.” Và Đạo sư hát :

“Con lạy dưới chân Marpa, bậc Giác Ngộ.

Nguyện năm tội vô gián
Được xóa sạch nhờ sám hối ăn năn.

Nguyện những tội lỗi của tất cả chúng sanh được xóa sạch
Nhờ những công đức của ta
Và công đức của chư Phật ba đời.

Nguyện tất cả những đau khổ của ông
Được ta đảm đương và chuyển hóa.
Ta xót thương cho người xúc phạm tổn thương
Với Thầy Tổ và cha mẹ mình.

Nguyện những hậu quả của nghiệp của người ấy
Được ta đảm đương và chuyển hóa.
Trong mọi thời gian và mọi hoàn cảnh
Nguyện người ấy tránh được sự đồng hành với kẻ tội lỗi.

Mà trong những đời tới
Nguyện người ấy gặp những đồng bạn đức hạnh.
Nguyện người ấy không có những tư tưởng xấu phá hoại công đức.
Nguyện anh ta nhẫn nhục không làm hại chúng sanh.
Nguyện tất cả muôn loài đạt đến Bồ đề tâm.”

Vị Geshe tràn ngập niềm vui với những lời ấy và nói, “Trong tương lai con sẽ không làm điều gì trái với Pháp, mà sẽ thiền định cho đến hết đời mình, như Đạo sư chỉ dạy. Trước kia, con đã phạm tội vì tham giàu có. Bởi thế con không muốn tài sản thế gian của con nữa. Nếu Đạo sư từ chối chúng, xin hãy để những đệ tử của Ngài nhận những tài sản đó để cung cấp cho nhu cầu của họ khi thiền định.”

Những đệ tử chấp nhận những cúng dường, về sau chúng được dùng để mỗi năm làm lễ cúng giỗ Đạo sư tại Chuwar. Bấy giờ Geshe Tsapuhwa từ bỏ thế gian và thành một người mộ đạo.

Đạo sư nói, “Thầy đến sống ở chốn này là để chấp nhận cho sự hối hận của người tội lỗi này và giúp nó thoát khỏi những hậu quả của tội lỗi của nó. Đối với một ẩn sĩ, chết trong một ngôi làng thì cũng giống như ông vua băng hà ở một căn lều tồi tàn. Bây giờ thầy sắp đi Chuwar.”

Repa vùng Seban nói, “Đạo sư đã kiệt sức vì bệnh, chúng ta sẽ võng Ngài đi.”

Đạo sư trả lời, “Không có thực tại nào trong bệnh tình của thầy cả. Không có thực tại nào trong cái chết của thầy cả. Thầy biểu lộ ở đây hình tướng của bệnh. Ở Chuwar thầy sắp biểu lộ hình tướng của cái chết. Không cần võng gì cả. Một số các con hãy đến Chuwar trước đi.”

Rồi một số đệ tử trẻ đi trước, nhưng Đạo sư là người đầu tiên đến Động Driche. Đồng thời có một Milarepa khác ở lại, đi cùng với những nhà sư lớn tuổi. Một Milarepa khác xuất hiện ở Núi Xúc Chạm Thì Độc và biểu lộ những triệu chứng của bệnh. Một vị khác được những đệ tử đến gặp Ngài ở Chuwar hầu hạ. Một vị khác thuyết giảng cho những thí chủ trên một chỗ lộ thiên ở Động Đá. Trong nhiều nhà khác nhau có một Milarepa xuất hiện với mỗi gia đình, họ cúng dường Ngài những phẩm vật.

Rồi thì những người đã đi trước đến Chuwar nói, “Đạo sư đã đến Chuwar trước chúng ta !”

Những nhà sư lớn tuổi nói, “Ngài đi với chúng tôi trên suốt cuộc hành trình.”

Khi những người khác đến, mỗi người đều nói, “Đạo sư thì ở đây. Chúng tôi cùng ở với Ngài.”

Một số nói, “Ngài đang ở trong nhà tôi.”

Những đệ tử khác nói, “Ngài đang giảng dạy ở Động Đá.”

Mỗi thí chủ nói, “Tôi đã mời Ngài vào nhà để cúng dường.”

Mỗi người nói một câu chuyện khác nhau. Rồi họ hỏi Đạo sư và Ngài trả lời, “Tất cả các con đều đúng. Đó là thầy đang đánh lừa các con.”

Rồi Ngài ở lại Động Driche, biểu lộ bệnh tật.

Vào thời gian này, cầu vồng và những dấu hiệu khác lại xuất hiện như khi Đạo sư thuyết pháp lần trước. Những điềm lành ấy có thể thấy trên bầu trời Chuwar và trên những đỉnh núi. Bây giờ mọi người đều chắc chắn Đạo sư sắp đi qua cõi khác.

Repa Ánh Sáng An Bình, Đạo sư xứ Ngandzong, và Repa vùng Seban thưa hỏi, “Bạch Đạo sư, Thầy sẽ đi đến cõi Phật nào ? Chúng con sẽ hướng sự cầu nguyện của chúng con đến nơi đâu ? Đạo sư ban cho chúng con những giáo huấn cuối cùng như thế nào ? Chúng con cần theo cách thực hành nào ?”

Đạo sư trả lời :

“Hãy kêu cầu ta bất cứ lúc nào các con muốn. Bất cứ lúc nào các con cầu nguyện đến ta với lòng tin, ta sẽ ở với các con. Bất cứ mục tiêu nào của các con sẽ được đáp ứng. Trong một khoảnh khắc, thầy sẽ ở trong Tịnh Độ của Phật Bất Động. Đây là những dạy bảo thầy nói với các con : Sau khi thầy ra đi, hãy trao cho Retchung những vật mà các con biết thầy thường dùng, cây gậy và cái áo dài của thầy. Chúng sẽ giúp một cách tốt lành cho sự thiền định của Retchung về kiểm soát hơi thở. Retchung sẽ về đến đây sớm. Chớ có chạm đến thân xác thầy cho đến khi anh ấy về đến. Cái mũ này của Đạo sư Maitrepa và cây gậy bằng gỗ đen này là dấu hiệu giáo lý của đức Phật sẽ được giữ gìn qua thiền định thâm sâu và cái thấy hoàn hảo. Bởi thế, hãy trao những vật thanh tịnh này cho Tonpa xứ UŠ (Gampopa). Ánh Sáng Bình An, hãy lấy cái bát gỗ này. Ngan-dzong Tonpa, hãy lấy cái chén bằng sọ người này. Repa vùng Seban, hãy lấy cái hộp mồi lửa này. Ẩn sĩ Repa vùng Di, hãy lấy cái muỗng bằng xương người này. Với những đệ tử được truyền pháp khác, mỗi người hãy lấy một mảnh vải của cái áo vải của thầy. Những vật ấy chẳng giàu có gì, nhưng tất cả đều là những vật chứng tín được ban phước.

“Bây giờ, đây là những dạy bảo rất quan trọng về điều mà các đệ tử chưa được biết. Dưới nền lò sưởi là tất cả số vàng mà thầy đã gom góp suốt đời thầy, và một di chúc để chia nó như thế nào trong các con. Sau khi thầy ra đi, hãy đọc di chúc và làm theo những chỉ thị đó.

“Về cách thức thực hành Pháp, có những người giàu họ tự xem họ là những người mộ đạo tốt. Họ có thể cho một trăm thứ ích dụng hay vô dụng như đồ bố thí, nhưng chỉ với động cơ là lấy lại một ngàn cái. Đây chỉ là cách thức để họ tôn vinh đời sống thế gian. Con người buông lung trong những hành vi tai hại một cách lén lút mà không ngó ngàng gì đến sự không bằng lòng của những thần hộ pháp thấy biết tất cả. Sợ rằng họ sẽ không thành tựu được những mục tiêu thế gian của họ, họ cố gắng làm điều tốt ; nhưng bởi vì không thể từ bỏ tham muốn được công nhận, họ thực sự đang ăn thuốc độc với thức ăn của họ. Chớ nên uống thuốc độc của lòng tham muốn được công nhận. Hãy từ bỏ mọi thứ mà các con gọi là thực hành Pháp nhưng thực ra nó chỉ hướng đến việc tôn vinh đời sống thế gian. Hãy hiến mình cho sự thực hành tâm linh chân thật.”

Các đệ tử Repa hỏi rằng, “Chúng con có thể dấn thân vào một đời sống hoạt động nếu nó tỏ ra có lợi lạc cho những người khác không ?”

Đạo sư trả lời :

“Nếu không có sự bám luyến vào những mục tiêu ích kỷ, các con có thể làm thế. Nhưng điều đó quả là khó khăn. Những người đầy tham muốn thế gian không thể làm điều gì để giúp đỡ những người khác. Thậm chí họ cũng không thể tự làm lợi lạc cho mình. Đó cũng như một người bị cuốn trôi trong một dòng thác mà tự cho là có thể cứu được những người khác. Không ai có thể làm điều gì cho chúng sanh nếu trước hết không đạt được cái quán thấy siêu việt về thực tánh. Như kẻ mù dắt kẻ mù, người ta chỉ có thể bị cuốn trôi bởi những dục vọng mà thôi. Không gian thì vô biên và chúng sanh thì vô lượng, các con sẽ luôn luôn có cơ hội để cứu giúp những người khác khi nào các con có khả năng làm điều đó. Cho đến lúc ấy, hãy trau dồi nguyện vọng đạt đến Phật tánh bằng cách thương yêu những người khác hơn chính các con trong khi thực hành Pháp. Hãy mặc vải rách và tự bằng lòng với thực phẩm ít oi, áo quần ít oi và được công nhận ít oi. Hãy điều phục thân thể các con và chánh niệm vào chân tánh. Điều này cần phải làm vì lợi lạc của tất cả chúng sanh. Để hướng dẫn các con trên con đường này, hãy ghi nhớ những lời sau đây.” Và Ngài hát bài ca này :

“Con kính lạy dưới chân Marpa Dịch Giả

Người nào chỉ tôn kính lama của mình
Mà không hoàn toàn giao phó thân tâm mình cho Ngài,
Sẽ chỉ được lợi lạc nhỏ nhoi.
Không nhận được quán đảnh thật sự,
Chỉ những lời của Tantra sẽ cột trói các con.
Không được hướng dẫn bởi thật nghĩa của những Tantra,
Tất cả những thực hành của các con chỉ đưa các con đi lạc đường.
Không có thiền định theo giáo huấn thâm sâu,
Người thực hành khổ hạnh chỉ hành hạ chính mình.

Người không hàng phục được tham muốn và mê vọng
Chỉ nói ra những lời chết khô và trống rỗng.
Người không biết phương tiện thiện xảo sâu xa
Sẽ thất bại, dù rất nhiều nỗ lực.
Người không có chìa khóa cho ý nghĩa thâm sâu của Pháp
Sẽ đi chậm trên Con Đường, dù dũng mãnh lớn lao.
Người chẳng tích tập công đức mà chỉ tìm cầu giải thoát phần riêng,
Chỉ làm chín thêm sự tái sanh, sanh tử còn hoài.
Người chẳng vì Pháp mà buông bỏ cái mình đã tích tập
Sẽ không hoàn thành sự hoàn thiện, dù có thiền định bao nhiêu.
Người không bằng lòng sâu xa với cái nó đang có
Sẽ thấy sự giàu có nó tích tập bị những người khác lấy đi.
Người không có trong chính nó cội nguồn của hạnh phúc
Chỉ tìm thấy khổ đau trong những lạc thú bên ngoài.
Người không diệt trừ được con quỷ tham vọng của mình
Chỉ tìm thấy sự tàn phá và xung đột trong tham muốn vang danh của nó.

Những tham muốn ích kỷ khuấy dậy năm độc.
Những tham muốn nhất thời làm chia rẽ bạn thân.
Sự tự suy tôn gây ra ác cảm nơi những người khác.
Giữ im lặng về chính mình sẽ tránh xảy ra xung đột.
Bằng cách duy trì tĩnh lặng và không phóng dật,
Trong cô đơn con sẽ tìm thấy bạn đồng hành.
Người làm việc với thận trọng sẽ nhanh chóng thành tựu những kết quả.
Buông bỏ hết đem lại sự hoàn thành vĩ đại.

Sự thực hành con đường bí mật là lối đi ngắn nhất.
Chứng ngộ tánh Không làm sanh sản Đại Bi.
Lòng bi phá hủy sự khác biệt giữa ta và người.
Nếu không có nhị nguyên giữa mình và những người khác,
Người ta hoàn thành mục tiêu của tất cả chúng sanh.
Những ai nhận ra nhu cầu của những người khác sẽ khám phá ra ta.
Những ai tìm thấy ta sẽ thành tựu Giác Ngộ.

Với ta, với Phật và với các đệ tử
Các con cần cầu nguyện như là một, xem các vị là một.”

Hát xong Ngài lại nói thêm : “Ta không biết ta còn sống bao lâu nữa. Các con đã nghe ta nói, bây giờ hãy làm như ta đã làm.”

Nói xong Ngài đi vào một trạng thái thiền định sâu xa.

Và như thế, ở tuổi tám mươi bốn, vào lúc mặt trời mọc ngày thứ mười bốn tháng mười hai năm Con Thỏ Mộc, dưới chòm sao thứ chín âm lịch,(7) Đạo sư nhập niết bàn.

Lúc ấy trên vùng ấy hiện ra những dấu hiệu rộng khắp và kỳ diệu tỏ ra rằng những daka và dakini đang tụ họp lại. Bầu trời trong vắt được trang hoàng bằng những hình vuông đan nhau đủ màu sắc cầu vồng. Ở trung tâm của mỗi hình vuông là một hoa sen tám cánh muôn màu mà bốn cánh có màu sắc thiêng liêng chỉ ra bốn hướng chánh. Trên mỗi hoa sen là những mạn đà la mà hình thể và cấu trúc của chúng kỳ diệu hơn nhiều so với công trình của các nghệ nhân và nhà xây dựng khéo léo nhất.

Xuất hiện trong bầu trời ở trên chúng là vô số cúng dường không thể tưởng của chư thiên, như những cầu vồng và mây ngũ sắc, tạo thành những lọng, cờ, phướn, tán, dải lụa...

Một cơn mưa hoa vĩ đại nhiều hình dáng và màu sắc. Trên những đỉnh núi mây ngũ sắc tạo thành những hình tháp với đỉnh nhọn hướng về Chuwar. Nhạc trời du dương được hòa ca để tán thán Jetsun,* trong khi hương thơm lừng thấm toàn thể quang cảnh. Mọi người đều chứng kiến những dấu hiệu này, và nhiều đệ tử loài người thấy những daka và dakini đón mừng Jetsun với nhiều đồ cúng dường. Những chúng sanh loài người không thấy những thân thể trần truồng của chư thiên là khiếm nhã, và chư thiên cũng không cảm thấy mùi khó chịu của những chúng sanh loài người. Hơn nữa, chư thiên và loài người tương thông với nhau, trò chuyện và chơi đùa với nhau như thời Chánh Pháp (Phật còn tại thế). Những dấu hiệu kỳ diệu này kéo dài cho đến khi hoàn tất lễ táng của Đạo sư.

Thời gian đó những thí chủ vùng Nyanang vừa biết về sự viên tịch của Đạo sư. Họ đi đến Chuwar và nói với đệ tử chính và những thí chủ vùng Drin cho họ đem thân xác Đạo sư về Nyanang. Người dân Drin từ chối và sửa soạn để làm lễ trà tỳ. Những người từ vùng Nyanang nói rằng nên hỗn lễ trà tỳ cho đến khi tất cả thí chủ Nyanang đến Chuwar để chiêm ngưỡng thi hài Đạo sư. Rồi họ ra đi và trở lại với một số đông người đòi thân xác Đạo sư.

Thấy vậy, những đại đệ tử cố gắng can thiệp cuộc tranh giành, nói như vầy : “Những tín đồ Nyanang và Drin đều là những đệ tử tín tâm của Đạo sư. Bởi vì Jetsun ra đi ở Chuwar thì không thích hợp đem thân xác Ngài về Nyanang, nhưng dân vùng Nyanang nên ở lại đây để tham dự lễ trà tỳ. Xá lợi sẽ được chia đều cho tất cả.”

Dù sau khi có sự can thiệp của những đệ tử, những người Nyanang ỷ vào sức mạnh của họ sửa soạn chiến đấu bằng võ lực. Vào lúc ấy, một chàng trai trẻ cõi trời xuất hiện giữa không trung ở trung tâm ánh sáng và cầu vồng và hát bài ca này với một giọng giống như giọng của Đạo sư :

“Hỡi những đại đệ tử và tín đồ cư sĩ tụ hội ở đây,
Đang giành nhau một cái xác !
Hãy nghe lời phân định này :
Ta, một đệ tử cõi trời của Jetsun, sẽ dàn xếp cuộc tranh cãi này.
Tâm của Milarepa, tối thượng giữa loài người, đã hòa lẫn vào Pháp thân vô sanh.
Ngoài tâm, không có sắc tướng nào thật có,
Thân xác của Đạo sư sẽ sớm tan vào Pháp thân.
Nếu không có được Xá Lợi Chân Thật
Mà tranh giành một cái xác thì thật là ngu dại.
Tất cả các người làm việc đó đều hành động điên đảo.
Bởi vì các người sẽ không có nó bằng cách tranh đấu,
Hãy cầu nguyện Jetsun với lòng sùng mộ sâu xa.
Nếu các người kêu cầu Ngài từ tận đáy lòng mình,
Thì dù Pháp thân Ngài là tánh Không vô sanh,
Bi nguyện Ngài sẽ biểu lộ không chướng ngại.
Bấy giờ các ngươi sẽ nhận những xá lợi từ Hóa Thân Ngài.”

Nói xong chàng trai trẻ biến mất như một cầu vồng.

Những tín đồ cư sĩ rất vui mừng khi nghĩ rằng sẽ thấy được Jetsun. Quên chuyện tranh cãi, họ cầu nguyện Đạo sư. Những đại đệ tử và tín đồ cư sĩ vùng Drin không còn sợ thân xác Đạo sư bị lấy đem đi bằng võ lực.

Cùng một thời gian, người Nyanang thấy rằng họ có một thân xác của Jetsun và đem đi Lachi hỏa táng ở Trứng Chim Ưng trong Đại Động Quỷ Bị Hàng Phục. Mọi dấu hiệu, như mống cầu vồng và ánh sáng, mưa hoa, hương thơm và nhạc trời xuất hiện cũng như ở Chuwar.

Trong khi đó ở Chuwar, những đệ tử chính và tín đồ cư sĩ thờ lạy thân xác Đạo sư. Sau sáu ngày họ thấy nó chuyển hóa thành một thân thể tỏa hào quang rực rỡ, nhỏ lại và trẻ trung như một đứa bé tám tuổi.

Những đại đệ tử bàn luận về vấn đề này và đi đến kết luận Tôn giả Retchung sẽ không đến kịp. Họ đồng ý nếu thân xác được để lâu hơn, e rằng không còn lại gì để có xá lợi mà tôn thờ và sùng mộ nữa. Giải pháp tốt nhất là làm lễ hỏa táng ngay.

Khuôn mặt của thân xác được mở ra cho tất cả chiêm ngưỡng. Rồi thân xác được chuyển vào một khám hỏa táng được dựng trên tảng đá đã từng là pháp tòa cho Jetsun thuyết pháp. Dưới chân tảng đá một mạn đà la được tạo bằng bột màu. Chung quanh nó đặt những đồ cúng dường tinh tế nhất mà con người có thể làm ra, tuy nhiên không thể nào sánh nổi với những phẩm vật cúng dường của chư thiên xuất hiện trên những cõi trời. Vào bình minh, lễ trà tỳ bắt đầu và giàn thiêu được đốt. Nhưng thân xác không chịu bắt lửa.

Vào lúc đó có năm dakini, mỗi vị từ mỗi bộ trong năm bộ,(8) xuất hiện trước đại chúng và hát bài ca này :

“Ram,(9) Tummo tri-giác-tất-cả là Lửa Tối Thượng.
Vì bậc Đại Trí đã thiền định suốt đời Ngài,
Lửa do người làm ra có dùng gì được ?
Với Người đã không ngừng tri giác xác thân trong hình tướng yidam,
Có là gì một xác chết bây giờ ?
Với thiền giả này Mạn đà la Tối thượng tuyệt vời đã tìm thấy vốn sẵn trong thân,
Có cần gì một mạn đà la vẽ trên mặt đất ?
Với Người ngọn đèn tâm-khí bất nhị hằng hằng tỏa sáng
Có cần gì một ngọn đèn nhỏ mọn bằng bơ ?
Với Người đã không ngừng dùng năm món thuốc trường sanh Bất Tử,
Có nghĩa gì bánh cúng thế gian ?
Với Người đã tự trang hoàng bằng Thanh Tịnh của Chân giới,
Đã sạch hết hai thứ nhiễm ô,
Bình tẩy tịnh có dùng cho ai đó ?

Bầu trời tràn ngập những mây hương
Và mạn đà la toàn thể của những cúng dường.
Hôm nay có cần gì thắp hương của các vị.

Bốn bộ dakini đang hát lời tán thán
Khi những dakini chủ cúng dường.
Hôm nay các vị cử hành nghi lễ ra sao ?

Bởi vì chư vị Đạo sư giác ngộ bao quanh Ngài
Và vô số đại thiền giả lễ kính,
Hôm nay có cần gì sờ chạm xác thân đây ?

Với Đạo sư đã chứng ngộ thực tại Chân Như,
Có cần gì làm đẹp cho cái xác của Ngài ?

Cái được trời người vĩnh viễn tôn sùng
Có cần gì một ai sở hữu !
Thay vì thế, hãy hòa nhập vào sự tôn thờ của toàn pháp giới.

Tuân thủ những giới điều của lama và yidam
Không cần gì thêm những giáo huấn khác,
Hãy tiếp tục đi theo những giới điều.

Bởi vì thân thể Đạo sư là một đống ngọc vô giá,
Hãy bỏ đi những tranh cãi chủ quyền và hãy bình an tịch lặng.

Bởi vì những giáo huấn của lama giác ngộ là bí mật sâu xa,
Hãy từ bỏ ý muốn luận bàn về chúng mà yên lặng tịch nhiên.

Những giáo huấn bí mật là hơi thở sống của những dakini,
Hãy thực hành chúng trong ẩn tu toàn diện, kẻo nhiễm ô vào những hình thức vô vàn.

Trong nỗ lực tập trung tiến về giải thoát,
Nhiều chướng ngại khởi lên, thế nên hãy thiền định trong ẩn mật hoàn toàn.

Qua sự trách mắng của guru kỳ diệu
Ban phước và chứng ngộ sẽ đến,
Thế nên hãy vất bỏ hết mọi tâm nghi ngờ.

Đã có câu chuyện cuộc đời giải thoát của Đạo sư,
Không cần gì phải tuyên dương danh tiếng.

Những ban phước tuôn chảy từ bài ca của những dakini tối thượng,
Thế nên hãy tăng trưởng lòng tin.

Hỡi những đệ tử phước đức, có nhiều vị thánh chứng đắc
Trong những hậu duệ tâm linh của Milarepa.

Hỡi chư thiên và loài người,
Sẽ không có dịch bệnh nào tàn phá người và thú vật của vùng đất này.
Tất cả các người tụ hội nơi đây tối nay
Sẽ không có ai sinh trong ba cõi thấp.

Trong mạn đà la tánh Như của Không tánh(10)
Tướng và Tánh, tri giác các sự vật bên ngoài và tánh Giác là một
Thế nên hãy phá tan sự bám chấp những phân biệt nhị nguyên.

Không có ý nghĩa đặc biệt nào trong giáo huấn cuối cùng của Đạo sư đã tịch,
Thế nên hãy hoàn thành những lời dạy của Ngài.

Nguyện tất cả các vị sống mãi mãi trong Pháp tối thượng,
Nguồn bao la của hòa bình và niềm vui !”

Khi bài ca chấm dứt, Đạo sư vùng Ngandzong nói, “Dù lời dặn của Đạo sư hỗn lại lễ trà tỳ cho đến khi Retchung về hợp với ý tứ của bài ca của những dakini, thì chúng ta cũng không biết khi nào huynh Retchung trở về. Thân xác sẽ sớm tan biến hoàn toàn vào hư không.” Repa Ánh Sáng Bình An nói ông chắc rằng Retchung sẽ đến sớm, như Đạo sư và những dakini đã nói, và cũng vì thân thể Đạo sư không chịu bắt lửa. “Trong khi chờ đợi, chúng ta hãy dành cho sự tôn thờ và kính ngưỡng Đạo sư.”

Vào thời gian đó Retchung đang ở tu viện Loro Došl miền Nam Tây Tạng. Một buổi sáng, lúc sắp bình minh, khi ông còn trong một trạng thái trộn lẫn giữa tham thiền và giấc ngủ, ông thấy một nhóm dakini sắp mang đi xa đến một cõi khác một tháp bằng pha lê chiếu sáng khắp các cõi trời. Ông thấy tháp pha lê được ca hát tán thán và tôn thờ bằng những phẩm vật cúng dường quá sức tưởng tượng bởi một chúng hội theo truyền thống Kim Cương thừa và những thí chủ cư sĩ đầy khắp mặt đất, và bởi chư thiên và chư dakini đầy cả bầu trời.

Retchung lễ lạy khi thấy Jetsun nghiêng người ra khỏi bảo tháp và Đạo sư nói, “Retchung, con ta, dù con không về đến đúng như ta yêu cầu con, thì tâm ta cũng tràn đầy niềm vui khi cha con chúng ta ít ra cũng đã trùng phùng. Không chắc khi nào chúng ta sẽ gặp lại gặp nhau, thế nên chúng ta hãy trân trọng cơ hội hiếm hoi này.” Rạng rỡ một nụ cười hoan hỷ, Đạo sư sờ nhiều lần lên đầu Retchung. Retchung nhận biết tính độc nhất của lần gặp gỡ này và một niềm tin chưa từng có khởi lên trong ông.

Retchung tỉnh dậy. Ông nhớ lại những lời nói trước kia của Đạo sư. Hy vọng lama của mình chưa chết, ông cảm thấy phải đi nhanh để gặp Ngài dù cho có thể không đến Chuwar kịp lúc. Khi ông cầu nguyện Jetsun với một niềm tin nồng nhiệt cực độ, hai người đàn bà xuất hiện trên trời trước mặt ông và nói, “Retchung, lama của ngài đã đi qua cõi Tịnh Độ của những dakini. Nếu ngài không đi nhanh ngài có thể không bao giờ thấy lại lama trong đời này nữa. Hãy đi ngay bây giờ không chậm trễ.” Điềm báo trong giấc mộng và việc thấy trên trời đầy những cầu vồng và ánh sáng làm khởi lên một nỗi niềm nhớ đến lama và mong mỏi đến với Ngài.

Ông rời bỏ Loro Došl vào lúc sáng sớm khi gà gáy. Duy trì nhất tâm hòa hợp với tỉnh giác thanh tịnh nhất về lama, Retchung trong một hành động sùng mộ, đã hít không khí vào thân và giữ hơi ấy, với sức mạnh của một mũi tên bắn giỏi đã trải qua chỉ trong một buổi sáng khoảng cách mà người du hành thường phải mất hai tháng. Rạng sáng hôm sau, đến đèo trên mõm Núi Podri giữa Dingri và Drin, ông nghỉ một lúc. Ông thấy những dấu hiệu kỳ diệu không tưởng tượng nổi tràn ngập toàn thể không gian của các cõi trời, núi non và trên mặt đất. Ông rất hoan hỷ. Trên đỉnh núi Jowo Razang ông thấy vô số chư thiên trẻ cả nam và nữ trong những vòm ánh sáng và cầu vồng, mang vô số phẩm vật cúng dường của năm xuất thần giác quan, nhiệt thành tôn thờ và lễ lạy hướng về Chuwar.

Thấy những dấu hiệu này, Retchung đầy lo âu. Ông hỏi các vị trời ý nghĩa của những dấu hiệu kỳ lạ này, và đặc biệt ai là người họ đang lễ bái. Một số thiên nữ nói, “Ngài đã cắt đứt hoàn toàn với thế giới này, cho nên không thấy gì, không nghe gì cả sao ? Những cúng dường này do chư thiên ở những cõi cao hướng đến Đạo sư linh thánh nhất của trái đất, Mila Kim Cương Cười. Ngài được cả trời và người thờ phụng ở Chuwar khi Ngài đi vào Tịnh Độ của những dakini.”

Nghe vậy, Retchung cảm thấy trái tim mình tan vỡ. Ông vội vàng đi nhanh hơn. Khi ông đến rất gần Chuwar ông thấy Jetsun đang ngồi trên một tảng đá lớn có hình nền vuông của một cái tháp. Đúng như trong giấc mộng, Đạo sư tỏ ra vui mừng, chào đón ông, nói rằng, “Con ta, bây giờ con đã ở đây.”

Nghĩ rằng Đạo sư chưa viên tịch, Retchung cảm thấy một niềm vui vô bờ. Ông lễ lạy dưới chân Đạo sư và nói với lòng tôn kính. Đạo sư trả lời mọi câu hỏi của ông.

“Retchung, con ta, ta sẽ dẫn đường, hãy theo ta.” Nói thế rồi, Đạo sư tiến lên trước và tức thời biến mất.

Retchung tiếp tục cuộc hành trình và đến Chuwar. Ở động của Đạo sư ông thấy những đại đệ tử, nhà sư, cư sĩ đang than khóc lễ bái thân xác Đạo sư. Không biết ông là ai, một số nhà sư mới vào tu chặn Retchung lại không ông đến gần nhục thân. Đau buồn vì điều đó, Retchung hát bằng một giọng buồn rầu Bài Ca Sùng Mộ Bảy Đoạn này :

“Ôi Đạo sư, bậc bảo vệ của chúng sanh,
Ôi Đạo sư, Phật của Ba Đời,
Trong Pháp thân bi trí sáng soi,
Xin hãy nghe bài ca kêu thương này
Từ đệ tử bất hạnh Retchung của Ngài.

Ôi Lama Tôn Quý ! Khốn khổ và đau thương, con kêu lên bài ca.
Mong muốn cháy bỏng được gần thân xác Thầy con bước đến
Nhưng đứa con bất hạnh này không thể thấy được mặt Thầy,
Xin nhìn xuống con với lòng bi mẫn, ôi Người Cha Tử Tế Nhân Từ.

Hướng đến Thầy, Phật của Ba Đời
Bậc sở đắc Trí huệ, Đại bi và Thần lực,
Con, một kẻ hành khất, con xin lễ lạy qua ba cửa thân, ngữ, tâm,
Và cúng dường sự thiền định theo lời Thầy dạy.
Con tịnh hóa những hành vi xấu ác khởi từ những tri giác bất toàn và méo mó.
Và vui sướng bao la (tùy hỷ) trong mọi hoạt động toàn thiện của Thầy.
Nguyện Thầy tiếp tục chuyển Bánh Xe Pháp thiêng liêng,
Nguyện Thầy trụ thế và không vào niết bàn.
Con nguyện hồi hướng những công đức của thiền định và chứng ngộ của con
Đến sự hoàn thành ý định của Thầy.

Nguyện con thành tựu kết quả của sự hồi hướng này
Và nguyện con thấy được tôn nhan Thầy.
Con, trước kia thầy đã đối xử với bao bi mẫn,
Giờ con bị ngăn không cho thấy được xác thân Thầy.
Bất hạnh thay, con không thấy được Đạo sư đang sống ;
Nhưng con mong thấy khuôn mặt Thầy khi chết,
Và sau khi thấy tôn nhan
Nguyện con trực tiếp nhận được hay là qua những linh kiến
Giáo huấn giá trị nhất của Thầy
Để hàng phục những chướng ngại trong hai giai đoạn cao hơn của thiền định.
Đây là nội dung lời kêu cầu của con.
Ôi Đạo sư, nếu Thầy không làm gì từ lòng bi cho đứa con của Thầy,
Thì có ai khác sẽ được Thầy che chở với trí huệ và tình thương từ phụ ?
Ôi Cha Lành, xin đừng lấy khỏi con cái móc của lòng bi của Người.
Xin nhìn con từ cõi giới vô biên không hình tướng.
Mong Đạo sư, bậc Thấy Khắp ba thời, nhìn đến Retchung, kẻ tôi tớ ngu mê với trí huệ.
Đứa con của Thầy, Retchung, bị hành hạ bởi năm độc.
Xin nhìn xuống con, hỡi Cha Lành, người sở đắc Năm Trí Tối Thượng.
Xin hãy nhìn với lòng bi xuống tất cả chúng sanh.
Xin hãy nhìn Retchung từ tình thương bi mẫn của Người.”

Retchung hát như thế với nỗi buồn rầu. Khi âm thanh giọng nói Retchung cất lên, ánh tỏa sáng trên mặt Đạo sư nhạt đi và đồng thời lửa bốc lên từ thân xác.

Nghe giọng của Retchung, Repa Ánh Sáng Bình An, Đạo sư Repa vùng Ngandzong, Seban Repa và những huynh đệ Kim Cương khác với những cư sĩ đến đón Retchung. Khó chịu vì hành động ngăn chặn của những đệ tử trẻ không cho ông đến thấy thân thể Jetsun, Retchung đứng yên cho đến khi bài ca chấm dứt.

Vào lúc đó, dù Đại Đạo sư đã đi vào Pháp thân trong suốt như pha lê, Ngài trở lại và nói với những đệ tử mới vào, “Chớ đối xử như vậy với Retchung, “Một con sư tử sống thì tốt hơn một trăm bộ da thuộc !” Hãy để anh ta đến với ta.”

Rồi Ngài nói với Retchung, “Con ta, chớ có thất vọng. Chớ có để cho khó chịu tác động. Hãy đến trước cha của con đây !”

Mọi người đều kinh ngạc và hoan hỷ vô song. Retchung ôm lấy thân thể Jetsun, khóc và mừng đến nỗi ngất đi. Khi tỉnh lại, ông thấy những đại đệ tử, nhà sư và cư sĩ tất cả đều ngồi trước hỏa khám đài táng. Đạo sư hoàn toàn không có chút bệnh tật nào. Xuất hiện như một biểu lộ bất khả hoại của sắc và không hợp nhất, và ngồi ngự trên một hoa sen tám cánh, Đạo sư chói ngời như một nhụy hoa. Ngồi trong tư thế thoải mái vương giả, tay phải Ngài đưa ra trong ấn thuyết pháp, đè ngọn lửa xuống, tay trái trong một ấn nâng đỡ má trái, một đầu gối hơi dở lên, Ngài nói với mọi đệ tử và cư sĩ, “Hãy lắng nghe sự trả lời này cho bài ca của Retchung và những lời cuối cùng của lão già này.”

Đạo sư hát bài ca bất hoại này, gọi là Sáu Nguyên Lý Chánh Yếu, từ đài hỏa táng :

“Hãy nghe đây, Retchung, yêu quý nhất của lòng ta,
Bài ca Chúc Thư Cuối Cùng về Giáo Huấn.

Trong đại dương của ba cõi sanh tử
Thân huyễn hóa là kẻ đại thủ phạm,
Cố gắng mãi hoài thỏa mãn những mục tiêu vô thường,
Quá ít thời gian để buông bỏ những truy cầu trần thế.
Hỡi Retchung, hãy buông bỏ những nỗ lực phát triển chẳng tới đâu.

Trong thành phố của thân như huyễn,
Tâm huyễn hóa là kẻ đại thủ phạm,
Làm nô lệ mãi hoài cho máu thịt xác thân,
Quá ít thời gian để chứng biết Thực Tại Tối Hậu.
Hỡi Retchung, hãy nhận rõ bản tánh chân thật của tâm.

Trên ranh giới giữa tâm và vật, cái thức bên trong là đại thủ phạm,
Bị hút vào lãnh vực của những tri giác do duyên,
Quá ít thời gian để chứng ngộ bản tánh không sanh của thực tại.
Hỡi Retchung, hãy đánh chiếm thành trì của tánh Không vô sanh bất diệt.

Trên ranh giới giữa đời này và đời kế tiếp,
Thức trong trạng thái trung ấm Bardo(11) là đại thủ phạm,
Cứ lo tìm một cái thân dù đã mất thân,
Quá ít thời gian để chứng ngộ Thực Tại Tối Hậu.
Hỡi Retchung, hãy tìm đường đến chứng ngộ này.

Trong thành phố hư vọng của sáu loại chúng sanh,
Có một sự tích tập vĩ đại những nhiễm ô và nghiệp xấu theo thúc đẩy của ghét và thương,
Quá ít thời gian để tri giác Tánh Không Toàn Khắp.
Hỡi Retchung, hãy buông bỏ ghét thương, lấy bỏ.

Trong cõi trời không thể thấy, có một vị Phật,
Ngài khéo léo dùng những giả huyễn,
Dẫn dắt chúng sanh đến chân lý tương đối,
Họ có ít thời gian để chứng ngộ chân lý tuyệt đối,
Hỡi Retchung, hãy buông bỏ những ý niệm, danh từ.

Lama, yidam và chư dakini, cả ba hợp nhất trong một.
Hãy cầu nguyện các Ngài !
Cái thấy, tham thiền và thực hành, cả ba hợp nhất trong một –
Hãy thông thạo chúng !
Đời này, đời kế và trung ấm, cả ba hợp nhất trong một –
Hãy thống nhất chúng !

Đây là giáo huấn cuối cùng và di chúc chót hết của ta.
Hỡi Retchung, không có gì để nói nữa.
Con ta ơi, hãy hiến mình tận tụy cho giáo huấn này.”

Nói như thế xong, Jetsun tan biến vào Tánh Không Toàn Khắp. Đài hỏa táng tức thì biến thành một lâu đài cõi trời, hình vuông, có bốn cổng vào với mái cổng trang hoàng xảo diệu. Trên vòm cổng một cầu vồng và một trướng ánh sáng, những lọng, phướn và những đồ cúng khác.

Ngọn lửa ở phần đáy có hình hoa sen tám cánh và đầu những ngọn lửa uốn cong hiện thành tám biểu tượng tốt lành(12) và bảy biểu hiện vương giả.(13) Thậm chí những tia lửa đều có hình thiên nữ bưng nhiều phẩm vật cúng dường. Những bài thánh ca và tiếng lách tách của ngọn lửa chói sáng nghe du dương như một bản đại hòa tấu an vui. Khói tỏa thấm mọi sự vật với mùi hương và trong bầu trời trên đài hỏa táng, chư thiên nam nữ trẻ rót xuống một dòng cam lồ từ những chiếc bình họ đang cầm và dâng cúng những vui thích đầy dẫy cho năm giác quan.

Những lama và những cư sĩ trong sạch đầy tràn niềm vui. Tất cả đệ tử, nhà sư và tín đồ cư sĩ đều thấy đài hỏa táng là một lâu đài cõi trời rực rỡ, trong khi chính thân xác được thấy khác nhau là Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaja hay Vajravarahi. Bây giờ chư dakini hát cùng một giọng :

“Sau khi Đạo sư – Viên Ngọc Như Ý – ra đi
Một số người khóc lóc và những người khác thở than.
Trong khi họ buồn rầu và than khóc
Một ngọn lửa chói ngời chợt tự bùng lên,
Ngọn lửa có hình hoa sen tám cánh,
Tám biểu tượng tốt lành, bảy biểu hiệu vương giả và nhiều đồ cúng dường vui thích.
Tiếng reo của lửa hòa âm thành nhạc điệu du dương
Như âm nhạc của tù và, não bạt, đàn sáo và trống
Từ những tia lửa lấp lánh xuất hiện những dakini
Của ba cấp độ – ngoài, trong và thậm thâm,
Lễ bái và cúng dường vô số phẩm vật đủ loại,
Giữa mây khói, những cầu vồng, ánh sáng có những đám mây cúng dường,
Như lọng, phướn, nút thắt vinh quang và chữ Vạn(14)
Vô số dakini đẹp đẽ tuyệt vời mang xá lợi đi từ đài hỏa táng,
Lạ lùng là thân xác Đạo sư được hỏa táng dù nó đã được trả về vô tướng, không để lại tàn dư.
Trong cõi giới Pháp thân của Lama, tụ hội đám mây Báo thân do đại nguyện và lòng bi của Ngài,
Lưu xuất những hoạt động của Hóa thân như một cơn mưa hoa không dứt.
Nhờ đó Ngài đem những người cầu đạo đến quả của họ.
Pháp giới, bản tánh tối hậu của tất cả mọi sự, thì trống không, không bị điều kiện hóa, không tăng không giảm.
Tánh Chơn Không thì không đến cũng không đi, không còn không mất.
Dù sanh tử do duyên có khởi có diệt cũng vốn trống không trong bản tánh của chúng.
Thế nên hãy vất bỏ những nghi ngờ mê hoặc của các ngườiù.”

Sau bài ca này, trời cũng vừa sẫm tối. Ngọn lửa chói sáng cũng biến mất. Mọi người nhìn thấy khám hỏa táng hoàn toàn trong suốt. Những đệ tử và cư sĩ nhìn vào những xá lợi. Một số người thấy một tháp lớn bằng ánh sáng trong khi những người khác thấy những hình tướng Hevajra, Chakrasamvara, Guhyasamaaja hay Vajravarahi. Một số khác thấy những đồ vật thiêng liêng, như chày kim cương, chuông, bình và những chủng tử tự(15) của những thần chú tượng trưng cho thân, ngữ, tâm giác ngộ. Những người khác thấy trong khám hỏa táng một ánh sáng trắng với những tia sáng sắc vàng, một ao nước phẳng lặng, một ngọn lửa cháy, một ngọn gió xoáy và những đồ cúng dường không thể thấy được làm những giác quan vui thích và vượt ngoài tưởng tượng. Tuy nhiên có những người khác thấy cảnh giới không gian trống không.

Những đệ tử mở cửa khám hỏa táng và rồi tất cả ngủ cạnh đó với mong mỏi rằng sẽ có một số lượng lớn di vật thiêng liêng và ngọc xá lợi đủ mọi hình thể kỳ diệu.

Rạng sáng hôm sau Retchung mộng thấy năm dakini màu xanh, vàng, lục, đỏ và trắng, khoác áo dài lụa và trang sức rực rỡ bằng nữ trang, một số làm bằng xương và số khác bằng ngọc. Những tùy tùng phái nữ trong những màu sắc tương tự vây quanh họ. Tất cả đều mang theo vô số đồ cúng dường thuộc năm xuất thần giác quan và lễ bái khám hỏa táng. Những dakini chủ mang đi một quả cầu ánh sáng trắng từ khám hỏa táng, phủ trong một tấm màn lụa trắng.

Retchung sững sờ trước cảnh tượng này. Rồi ông tiến đến khám hỏa táng xem thử hay là những dakini lấy đi tro và ngọc xá lợi. Những dakini bay lên trời. Ông vội vàng thức tất cả những huynh đệ Kim Cương. Khi họ bắt đầu xem xét khám, họ thấy rằng những dakini đã mang đi tất cả những di vật thiêng liêng, chẳng để lại cái gì, thậm chí là tro. Buồn rầu, Retchung cầu xin từ những dakini một phần xá lợi như là phần chia cho loài người. Những dakini trả lời, nói rằng, “Nếu ngài, đại đệ tử của Jetsun, mà còn không bằng lòng với sự thức tỉnh trực tiếp về tâm thức của ngài trong trạng thái Pháp thân của nó, đây là cái thiêng liêng quý báu nhất của tất cả các xá lợi, thì ngài nên cầu nguyện Đạo sư ngõ hầu từ lòng bi của Ngài, Ngài có thể chấp thuận cho ước nguyện của ngài chăng ! Về phần loài người, họ không có sự tôn kính đối với Đạo sư – vị chiếu sáng như mặt trời mặt trăng – họ sẽ không được phần nào cả, tro lẫn xá lợi. Họ chưa bao giờ quý trọng Ngài, xem Ngài như một con đom đóm. Bởi thế những di vật này thuộc về chúng tôi.”

Nói xong những dakini này vẫn ở yên trong bầu trời. Bấy giờ Retchung, nhận biết sự thật về điều những dakini đã nói, hát lên lời cầu nguyện này :

“Ôi Đạo sư, khi Thầy ở với Bổn sư Marpa,
Thầy đã tha thiết tin tưởng cố gắng hoàn thành mọi chỉ thị của Ngài.
Nhờ đó Thầy đã được trao cho những giáo pháp mang chân lý sâu xa,
Rồi Thầy đã thức tỉnh và giải thoát cho mọi người cầu đạo phước đức.
Xin hãy ôm chúng con và tất cả chúng sanh với lòng bi của Thầy,
Và ban cho chúng con xá lợi của Thầy để cho lòng quy ngưỡng của chúng con.

Ôi Đạo sư, khi Thầy sống trong núi non hoang vắng,
Qua sự thiền định kiên trì của Thầy
Thầy đã thành tựu thần lực để phát khởi những biểu hiện diệu kỳ
Như là dấu hiệu sự chứng ngộ,
Danh tiếng Thầy trải ra khắp xứ.
Xin hãy ôm chúng con, những người đã thấy và đã nghe Thầy,
Và ban cho chúng con xá lợi của Thầy để cho lòng quy ngưỡng của chúng con.

Ôi Đạo sư, khi Thầy ở giữa các đệ tử chúng con
Thầy bi mẫn cho tất cả, tràn đầy bình đẳng.
Trong Thầy chúng con thấy được sự nở hoa trọn vẹn của cái thấy thấu suốt và sự biết trước.
Thầy tràn đầy từ tâm cho chúng sanh.
Xin hãy ôm chúng con, những hành giả may mắn, với lòng bi của Thầy,
Và ban cho chúng con xá lợi của Thầy để cho lòng quy ngưỡng của chúng con.

Ôi Đạo sư, khi Thầy ở giữa đám đông, Thầy từ bi khởi dậy nơi họ Bồ đề tâm rộng mở.
Thầy dẫn đưa tất cả những ai tìm đến Thầy vào con đường giải thoát.
Với những ai khốn khổ Thầy đặc biệt xót thương.
Xin hãy ôm chúng con, những hành giả may mắn, với lòng bi của Thầy,
Và ban cho chúng con xá lợi của Thầy để cho lòng quy ngưỡng của chúng con

Ôi Đạo sư, khi Thầy xả bỏ thân thể huyễn hóa, Thầy đã hoàn toàn thức tỉnh với chân lý bổn tâm.
Thầy thấy biết tất cả mọi hiện tượng là Pháp thân và trở thành tối thượng giữa tất cả dakini.
Xin hãy ôm chúng con, những hành giả may mắn, với lòng bi của Thầy,
Và ban cho chúng con xá lợi của Thầy để cho lòng quy ngưỡng của chúng con.
Xin chấp nhận cho chúng con, những con cái của Thầy đang tụ hội nơi đây.”

Retchung cầu nguyện Đạo sư bằng bài ca buồn thảm như thế. Lúc đó vị dakini chủ thả xuống từ tay bà một vật thiêng liêng, lớn bằng quả trứng, nó phóng ra một dòng ánh sáng năm màu và xuống đến khám hỏa táng. Mọi đệ tử chánh đều đưa tay ra nhận lấy phần mình. Thế rồi vật ấy bay lên trở lại và nhập vào trong ánh sáng vị dakini chủ đang cầm. Ánh sáng bây giờ phân làm hai, một phần biến thành tòa sư tử với một tọa cụ bằng sen trên có mặt trời mặt trăng. Phần ánh sáng kia biến thành một cái tháp pha lê và đến ngự trên ngai. Những ánh sáng năm màu tỏa chiếu từ tháp. Tháp cao khoảng nửa thước và có Một Ngàn Lẻ Hai đức Phật(16) bao quanh. Bốn tầng tháp có những hóa thần yidam rực rỡ của bốn loại Tantra trong thứ tự tự nhiên của các vị. Ngồi ở trong phòng hình cầu của tháp là hình tướng của Milarepa, cao khoảng tấc rưỡi.

Những dakini lễ lạy và tôn sùng Ngài với bài ca sau đây, có hai dakini đang bảo vệ tháp phụ họa :

“Hỡi các con ! Dewa Kyong (Người Giữ Gìn An Lạc), Shiwa OŠ (Ánh Sáng Bình An), Đạo sư vùng Ngandzong, và những đệ tử áo vải được ban phước khác.
Với sự nhiệt thành sùng mộ và thiết tha các con kêu cầu danh hiệu người cha tâm linh của mình
Xin Ngài ban cho các con và tất cả loài người, di vật và xá lợi
Làm bảo vật cho lòng quy ngưỡng của các con.

Do sức mạnh cầu nguyện đến từ sâu thẳm của lòng các con,
Và do thần lực của lòng bi của Milarepa,
Các con đã thấy sự xuất lộ của Ba Thân của Ngài
Và như vậy các con không trở lại vào vòng sanh tử luân hồi nữa.
Nếu các con nhất tâm tận nguyện các con sẽ đạt Giác Ngộ viên mãn.

Từ Nhất Chân Pháp Giới của Pháp thân khởi ra một di vật thiêng liêng lớn bằng quả trứng.
Nó là một vật để quy ngưỡng cho tất cả loài người.
Nhưng các con không thể có nó bằng cách nắm lấy nó.
Làm sao nó thường trụ giữa thế phàm lấy bỏ ?
Nhưng nếu các con lại nhiệt thành cầu nguyện Jetsun, lòng bi của Ngài cho các con không bao giờ giảm sút,
Vì có một cam kết long trọng của tất cả chư Phật vì lợi lạc của các con.
Qua những hoạt động mở khắp khởi từ Pháp thân, những biểu lộ hình tướng khởi lên trong vô vàn hình thức.

Yidam Chakrasamvara của các con xuất hiện cùng với phối ngẫu của Ngài trong tư thế hợp nhất,
Trang sức tráng lệ với đồ trang sức bằng xương.
Một mạn đà la những hóa thần(17) lấp kín bầu trời.
Đồ cúng dường của những daka và dakini tỏa ra như mây.
Báo thân biểu lộ ban quán đảnh cho các con nhanh chóng thành tựu chứng ngộ.
Nếu các con có thể cầu nguyện các vị, những ảnh hưởng tâm linh của các ngài sẽ không bao giờ giảm sút,
Bởi vì có một cam kết long trọng của tất cả chư dakini vì lợi lạc cho các con.

Bằng những hoạt động mở khắp của chư Phật trong Pháp thân những hiện thân của các ngài khoác nhiều hình thức.
Bởi thế, xuất hiện một tháp pha lê gần nửa thước chiều cao,
Bao quanh là Một Ngàn Lẻ Hai đức Phật, như diễn tả trong kinh,
Và trang hoàng với yidam trong bốn loại Tantra.
Thật là một thị kiến diệu kỳ trước mắt các con !
Nếu các con có thể cầu nguyện các vị không xao lãng,
Những hoạt động mở khắp của các ngài sẽ không bao giờ giảm sút,
Bởi vì có một cam kết long trọng của tất cả các bậc đạo sư đã thức tỉnh vì lợi lạc cho các con.

Nếu các con thành thật an trụ bởi những thệ nguyện của mình, tất cả hộ pháp sẽ ủng hộ các con.
Nếu các con có thể sống trong núi non hoang vắng, những thiện trí thức, daka và dakini, sẽ tự nhiên tụ tập quanh các con.
Thành thật nhất tâm vào Pháp là dấu hiệu đi trước của sự chứng ngộ nhanh chóng của các con.
Nếu các con thoát khỏi tham muốn lạc thú, các con nhổ được gốc của những nhiễm ô tâm thức.
Nếu các con không bám vào chấp ngã và chấp pháp cho là thật có, những chướng ngại và những lực lượng phá hoại sẽ bị loại trừ.

Nếu các con không còn bám chấp nhị nguyên, cái thấy của các con đã đạt đến hoàn thiện.
Nếu các con có thể thấy biết sanh tử và niết bàn là trống không, sự thiền định của các con đã đạt đến hoàn thiện.
Nếu sự buông bỏ khởi sanh từ sâu thẳm của tâm thức, sự thực hành của các con đã đạt đến hoàn thiện.
Nếu lama nói cho biết trước công việc định mệnh của các con, sự cam kết của các con đã đạt đến hoàn thiện.
Nếu các con tìm cách phụng sự tất cả chúng sanh, mục tiêu của các con đã đạt đến hoàn thiện.

Nếu Đạo sư và những đệ tử thành tựu một hòa hợp tâm linh, mối liên hệ của họ đã đạt đến hoàn thiện.
Nếu các con nhận biết những dấu hiệu và trạng thái của sự chứng ngộ của các con, những thị kiến tri giác của các con đã đạt đến hoàn thiện.
Sự hòa hợp trong chúng, kinh nghiệm thức tỉnh cùng với sự ấm áp bên trong và mọi dấu hiệu của nó,
Hãy để cho chúng là phần chia xá lợi giữa các con.”

Sau bài ca này, những dakini để lộ cái tháp cho tất cả đệ tử nhìn thấy. Khi những dakini sắp đi đến những cõi khác, họ đặt cái tháp trên một cái ngai bằng châu báu. Muốn cầu xin những dakini đang cầm cái tháp để lại tháp như một vật thiêng liêng cho loài người quy ngưỡng, Shiwa OŠ (Ánh Sáng Bình An) Repa thỉnh cầu họ bằng bài ca này :

“Ôi Cha, Ngài đảm đương Hóa thân để phụng sự những người khác.
Ngài là bậc thấy Tánh đã thức tỉnh như là Báo thân.
Như là Pháp thân vô tướng, Ngài ôm trùm pháp giới,
Con cầu nguyện Ngài, trạng thái tối hậu của thực tại.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thếá Tôn, khi gặp gỡ những vị thánh giác ngộ khác,
Thầy như một cái tráp đầy châu ngọc quý,
Thầy là bậc thấy Tánh vô giá, hỡi Thế Tôn.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc thành tựu trí huệ toàn thiện.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy phụng sự lama của Thầy,
Thầy giống như len của con trừu trắng,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, ban lợi lạc cho tất cả chúng sanh.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Đại Bi toàn khắp,
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy từ bỏ những theo đuổi thế gian,
Thầy như vua của những nhà hiền minh thời cổ,
Một thiền giả thấy Tánh không động lay.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Không Gì Có Thể Chế Ngự.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy thiền định về những giáo huấn của lama của Thầy,
Thầy như một con cọp cái ăn thịt một xác chết,
Một bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, Thầy thoát khỏi mọi nghi nan.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Kiên Trì chuyên nhất.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy biểu hiện những dấu hiệu của thần lực bên trong,
Bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, Thầy như con voi và sư tử tuyết,
Thoát khỏi tất cả mọi yếu đuối thế gian.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Vô Úy.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy đạt Sáng Tỏ với ấm áp hoan hỷ,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, như mặt trăng tròn
Thấm khắp toàn thể trái đất bằng quang minh và hơi ấm.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc trong ngần Vô Ngã.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thêá Tôn, khi Thầy dẫn dắt các đệ tử cao cấp nhất của Thầy,
Sự gặp gỡ như một tấm-gương-lấy-lửa dưới ánh mặt trời,
Thầy, bậc thấy Tánh vĩ đại, đưa họ vào trạng thái thức tỉnh.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Nhân Từ Tử Tế,
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy tiếp xúc của cải thế trần,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, giống như thủy ngân rơi trên mặt đất,
Không bao giờ nhiễm ô vì huyễn tướng thế phàm.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Toàn Hảo muôn bề.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy hướng dẫn những chúng hội đông người,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, giống như mặt trời mọc trên đại địa,
Xua tan bóng tối, làm sáng bừng cho tất cả,
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Trí-Bi toàn khắp.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy gặp gỡ mọi người,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, giống như một người mẹ gặp đứa con độc nhất,
Tìm cách làm tất cả cho sự tốt đẹp của họ.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Thương Yêu Từ Ái.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy đi đến cõi những dakini,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, giống như một cái bình như ý,
Thỏa mãn ước ao của tất cả trời-người.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Kỳ Diệu vô song.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi ban cho những chỉ thị tiên tri,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, giống như một ngón tay
Chỉ thẳng sự việc không chút gì lầm lẫn.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Thấu Rõ Ba Đời.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.

Ôi Thế Tôn, khi Thầy ban những giáo huấn để thúc đẩy nhanh sự
chứng ngộ của chúng con,
Thầy, bậc thấy Tánh đã thức tỉnh, như một người cha truyền tất cả gia sản cho con,
Không bám luyến, lẫn tiếc, không chút gì giữ lại.
Con dâng cúng lòng sùng mộ của con lên Thầy,
bậc Đại Bi toàn vẹn.
Bảo tháp những dakini đang cầm trong tay,
Xin hãy ban cho chúng con, những đứa con còn lại của Thầy.”

Với lời cầu khẩn này của Repa Ánh Sáng Bình An, có sự trả lời bằng một bài ca từ hình tượng của Jetsun trong tháp, xua tan những sai lầm của phán đoán về những sự việc có vẻ như giống nhau.

“Hỡi đệ tử tín tâm và thiện căn lợi trí,
Kêu cầu ta âm vang giọng đau buồn,
Hãy nghe đây những đệ tử áo vải tuyệt vời,
Ta là Milarepa,

Trong tánh Không của Pháp thân ta suốt khắp,
Có gì đâu được-mất bao giờ,
Khi xác thân ta tan vào Tánh Không Trùm Khắp
Tất cả tro tàn và xá lợi hóa thành một tháp tỏa hào quang,
Với hết thảy chúng sanh tìm cầu công đức, đấy là một vật thiêng liêng.
Chỗ an vị của nó sẽ là những cõi Phật và những người bảo vệ nó là năm loại dakini.
Chư thiên và chư dakini sẽ tôn kính thờ phụng nó.
Nó sẽ biến mất nếu để lại trong cõi người.

Về phần chia của các con, những đệ tử của ta,
Ta đã thức tỉnh tánh giác bổn nguyên sâu thẳm của các con, vốn đồng nhất với Pháp thân.
Vì đây là cái linh thánh nhất của mọi ngọc xá lợi.
Trong cố gắng đi đến giác ngộ về Cái Ấy, các con sẽ đối mặt với
Những sai lầm của phán đoán về những cái tương tự và những cái khác biệt.
Hãy hấp thụ chúng chớ quên, và phân biệt theo đó.

Nối kết với một người cha tâm linh ngài là một lama toàn hảo, và
Nối kết với một người phẩm chất tốt do nghiệp quá khứ,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Thấy biết Tánh Không bổn nhiên của tâm con, và
Ở trong một trạng thái vô niệm do tâm thức dẫn khởi,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Đạt đến một trạng thái bổn nguyên tự nhiên trong thiền định, và
Bám vào một cái vỏ bọc tĩnh lặng do tâm thức gò ép,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Sự xuất hiện bên trong của một sự tự-giải thoát tự nhiên, và
Ý thức về những ý niệm chúng có vẻ đúng,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Thấy biết bản tánh không nhiễm ô của tâm trong nguyên thể trần truồng của nó, và
Do lòng tốt phụng sự những người khác vì lợi lạc của họ,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Những dấu hiệu chứng đắc khởi từ những nỗ lực trong chứng ngộ, và
Có được sự thành công vật chất nhờ nghiệp đời quá khứ,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Những hướng dẫn và tiên tri của những dakini, của những vị nắm giữ trí huệ tối thượng (thiện tri thức) và
Sự mời mọc kêu gọi của những lực lượng siêu nhiên,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Sự ủng hộ có thể tin cậy của những dakini bảo vệ, và
Những chướng ngại thử thách do những năng lực của Ma đặt ra,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Cảnh giới không dấu vết nhiễm ô của Pháp thân, và
Xá lợi bằng chất liệu của trái đất,
Dù cả hai có vẻ xứng đáng tôn thờ như nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Sự nở hoa của Hóa thân khởi từ tánh Không Toàn Khắp, và
Hoa trời từ cõi chư thiên của xuất thần giác quan.
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Một cái tháp giả tạo do những lực lượng ngăn chướng của Ma, và
Một cái khác được tạo ra qua hành động kỳ diệu của yidam,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Ánh sáng và cầu vồng biểu trưng của năng lực vũ trụ, và
Ánh sáng và cầu vồng của hiện tượng tự nhiên,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Niềm tin khởi từ những nối kết nghiệp quá khứ, và
Niềm tin dẫn khởi do những hoàn cảnh,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Tôn kính khởi từ những chiều sâu của lòng, và
Tôn kính phát sinh từ hổ thẹn và phong tục bắt buộc,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Thành thực tha thiết đối với Giác ngộ, và
Giả bộ làm hài lòng lama của mình vì những mục tiêu thế gian,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Tìm kiếm để thực hiện mục đích qua sự kiên trì, và
Gieo rắc những quyết tâm nói suông chỗ này chỗ nọ,
Dù cả hai có vẻ giống nhau, hãy cẩn thận chú ý không phán đoán lầm lẫn.

Tháp này thuộc về sự trông coi của những dakini, những thiện tri thức,
Ở trong cõi của những bậc Giác Ngộ, quá khứ, hiện tại, vị lai,
Là cung điện cõi trời cho những daka và dakini đã thức tỉnh,
Và là thất thiền định của lama Jetsun của các con.
Ở phương Đông có một cõi Phật nơi đó một mạn đà la của những dakini được gom tụ.
Trong cõi hoan hỷ tối thượng này Chakrasamvara vinh quang, Avaloketsvara(18) và Tara trú ngụ.
Trong cõi tuyệt đối bình an này vô số dakini chờ đợi đón tiếp bảo tháp.

Nếu các con cầu nguyện từ đáy lòng mình,
Với nước mắt tự nhiên của niềm vui, với thành tâm sùng mộ,
Bảo vật để tôn kính này thật kỳ diệu, hãy dội nó với
trí huệ,
Hãy rắc nó với nước Bồ đề tâm.
Hãy để cho tín tâm toàn thiện và không lay động làm sự che chở cho các con.
Nếu các con muốn nhận sự nhập môn vào giác ngộ
bất nhị,
Hãy đặt đầu mình dưới bảo tháp vinh quang.”

Khi bài ca chấm dứt, những dakini chuyển cái tháp đến khoảng không phía trên đầu của các đại đệ tử. Phóng xuống một dòng ánh sáng đến đầu mỗi người, ban thần lực cho họ. Phần đông đại chúng thấy một hình tướng của Milarepa từ tháp và xuất hiện ở khoảng không phía trên. Mỗi nhóm người thấy Ngài khác nhau. Một số thấy Ngài là Hevajra, những người khác thấy là Chakrasamvara, Guhyasamaja hay Vajravarahi. Mỗi Yidam bao quanh bởi một mạn đà la những xuất hóa, nam lẫn nữ, rồi họ lại rút vào trong ngực của yidam chính. Mạn đà la tự chuyển thành một khối ánh sáng trong bầu trời và chuyển về phương đông. Mỗi người hiện diện thấy những dakini trang hoàng tháp bằng lụa đủ kiểu, đặt nó vào trong cái tráp nạm ngọc và rồi mang đi về phương đông.

Một số đệ tử thấy Milarepa trong hình thức một Báo thân Phật trang sức bằng ngọc và ngồi trên một con sư tử, bốn chân sư tử được bốn dakini đỡ trong khi Vajravarahi dẫn sư tử bằng cương. Các vị tiến về phương đông, có vô số daka và dakini mang những đồ cúng dường cõi trời như lọng phướn đi theo trong tiếng nhạc trời trỗi lớn. Những người khác thấy bảo tháp do một vị dakini màu trắng mang đi trong một cái kiệu lụa trắng. Và có những cái nhìn thấy kỳ diệu đủ loại khác.

Những đệ tử, tăng, ni và cư sĩ rất đau buồn vì không có phần xá lợi nào. Họ kêu than bằng những lời cầu nguyện động lòng. Dù hình tướng không thể thấy, từ không gian phát ra một giọng giống như của Jetsun, nói rằng, “Hỡi các con, chớ để cho mình bị đau buồn và thất vọng hàng phục. Về phần xá lợi của các con, có một phiến đá cẩm thạch trên đó có xuất hiện bốn chữ linh thiêng khắc nổi. Hãy đi tìm nó dưới tảng đá nền khám hỏa táng.”

Những đệ tử tìm tảng đá và thấy đúng như lời nói. Mọi người đều vơi nhẹ nỗi buồn. Phiến đá kỳ diệu này được tôn thờ ở ngôi chùa đơn độc ở Chuwar.

Những đệ tử chính tin chắc rằng họ sẽ được sanh làm những đệ tử cao nhất của Jetsun trong tương lai bao giờ họ đạt Giác Ngộ Tối Thượng, dù cho bây giờ họ có buồn bã vì sự ra đi của Ngài qua một cõi khác. Họ cũng chắc chắn rằng mọi phương diện của cuộc đời Jetsun sẽ đáp ứng được mục tiêu vĩ đại của Pháp và thỏa mãn nhu cầu của chúng sanh. Những đệ tử cao cấp nhất còn tin rằng họ sẽ hoàn thành những mục tiêu của họ cho chính họ và cho những người khác qua sự dâng hiến đời mình cho con đường giải thoát.

Những đệ tử đều đồng ý họ phải tìm kiếm số vàng dưới lò sưởi của Jetsun đã chỉ thị trong di chúc, dù cho xét theo cách Ngài sống, số vàng ấy chưa chắc đã có. Khi đào nền lò sưởi lên, họ thấy một mảnh vải trắng vuông vức. Gói trong đó là một cây dao với một cái lưỡi để cắt, một cái để làm dùi, và cán dùng để đánh lửa. Cũng có một tảng đường thô, cùng một lời ghi chú, “Khi cắt bằng cao dao này, vải và đường sẽ không bao giờ hết. Hãy cắt vải và đường thành bao nhiêu miếng nhỏ cũng được để phân phát cho mọi người. Người nào nếm đường và sờ vào miếng vải sẽ thoát khỏi những cõi thấp, bởi vì những vật này là đồ ăn và đồ mặc của Milarepa qua suốt thiền định thức tỉnh của Ngài, chúng đã được chư Phật quá khứ ban phước. Bất cứ chúng sanh nào nghe tên Milarepa dù chỉ một lần và có lòng tôn kính với Ngài sẽ không rơi vào vòng tái sanh trong những cõi thấp trong bảy đời. Những điều này đã được chư Phật đời quá khứ huyền ký. Người nào nói rằng Milarepa có vàng, “hãy tộng phân vào miệng nó”. Câu tục ngữ đặc biệt này của Milarepa khiến những đệ tử cao cấp đều cười, dù họ đang buồn vì sự ra đi của Ngài. Cuối tờ ghi chú có thông điệp như sau :

“Đây là lương thực thiền giả của ta qua suốt cuộc thiền định,
Nó giúp ta sống suốt cuộc đời.
Đó là lương thực của lòng bi tạo nên thần lực yoga và Giác Ngộ.
Những chúng sanh ăn thực phẩm này sẽ đóng cánh cửa tái sanh
Trong cõi của những quỷ đói.

Mảnh vải trắng là y phục của Tummo-Trí Huệ.
Tất cả ai mặc nó lên thân hay choàng quanh cổ
Sẽ đóng cánh cửa tái sanh
Vào những địa ngục cháy đỏ và địa ngục đóng băng.
Những ai nhận được sự ban phước của ta qua những di vật
Sẽ được giải thoát khỏi ba cõi thấp.
Tất cả những ai đã có một mối liên kết tâm linh với ta
Nhờ đó sẽ không bao giờ tái sanh vào những cõi thấp,
Và sẽ dần dần đạt Giác Ngộ Hoàn Toàn.

Những ai có thể đáp trả với niềm tin
Dù khi họ chỉ nghe đến tên Milarepa
Sẽ nhớ lại tên mình và dòng dõi gia đình trong bảy đời quá khứ.
Với Milarepa, người cha kiên cường của các con, toàn thể vũ trụ là vàng ròng.
Ta có cần gì một gói vàng bụi bặm ?
Các con ơi, hãy nỗ lực phấn đấu theo những lời ta dặn
Thì các con sẽ hoàn toàn thành tựu những mục tiêu nhất thời và tối hậu.”

Bấy giờ tảng đường thô được cắt với cây dao thành vô số miếng nhỏ. Mỗi phần cũng lớn bằng tảng đường gốc. Tương tự, khi miếng vải trắng được cắt thành nhiều mảnh, mỗi góc vải trở thành cùng kích cỡ như nguyên bản. Rồi đường và vải được phân phát cho tất cả những người trong đại chúng. Họ nếm đường và sờ vào vải, bệnh tật và khốn khổ mất hẳn. Những người đầy ác ý, tham mê và thành kiến thấy mình có những phẩm tính lòng tin, tinh tấn, trí huệ và lòng bi, và cuối cùng thậm chí còn hoàn thành sự giải thoát khỏi những cõi khổ. Đường và vải mọi người nhận được vẫn tồn tại suốt đời họ và không hư mất.

Trong ngày lễ tang, khi những đệ tử phụng thờ thân xác của Milarepa, một cơn mưa hoa bốn màu và năm màu rơi xuống. Những bông hoa khi rơi xuống gần tầm tay con người lại bay trở lên trời và biến mất. Một số hoa rơi xuống đất tan biến ngay khi bàn tay người vừa chạm đến, còn những hoa còn nằm đó thì đẹp tuyệt vời. Những bông hoa ba màu mịn màng mỏng manh như cánh con ong, ngập đầy mắt cá ở thung lũng Chuwar, và trong những nơi khác chúng phủ đầy mặt đất, tạo một sắc thái khác cho đất. Sau lễ trà tỳ những dấu hiệu kỳ diệu như những ánh sáng và cầu vồng, từ từ nhạt dần cho đến khi biến mất hẳn.

Vào mỗi kỳ giỗ hàng năm mọi dấu hiệu hiện tượng như những cầu vồng và ánh sáng, hương thơm và nhạc trời xuất hiện trong bầu trời trong sáng giống như ngày Jetsun ra đi. Những dấu hiệu kỳ diệu xuất hiện vào mỗi dịp ấy lạ lùng đến nỗi chúng không thể được xác định bằng quan niệm của chúng ta hay diễn tả qua ngôn ngữ của chúng ta. Chẳng hạn ngay trong mùa đông giá lạnh, hoa bừng nở, toàn vùng được hưởng những mùa trúng lớn và thịnh vượng, và không có bạo lực hay bệnh dịch tàn phá.

Tóm lại, sau chuyến ra đi cuối cùng về cõi Phật của Milarepa, con người vĩ đại nhất trong các vị thánh, câu chuyện đời Ngài trở thành một gương mẫu rõ ràng của giải thoát tối thượng, và kết quả của lòng bi vô cùng và sự quan tâm khắp cả có thể thấy được trong những vị nối dõi tâm linh của Ngài. Những đệ tử đã thành tựu Giác Ngộ Trọn Vẹn nhiều như sao trên trời ; những người thành tựu sự không trở lại sanh tử cũng nhiều như bụi trên mặt đất. Những đàn ông và đàn bà đi vào con đường giải thoát nhiều không thể đếm xiết. Ngài đã làm cho những giáo lý của Phật cháy bừng như mặt trời rực rỡ và dẫn dắt chúng sanh thoát khỏi những thống khổ nhất thời và thường trực để đến hạnh phúc và nguồn gốc của hạnh phúc.

Đây là chương thứ chín của cuộc đời đại thánh Milarepa, nói về sự tan biến của thân thể tứ đại của ngài vào Tánh Không Trùm Khắp khi đã hoàn thành những công việc giác ngộ, để làm khởi dậy một thôi thúc tâm linh và một sự thức tỉnh nơi chúng sanh. Hơn nữa, nó cũng đề cập như thế nào, qua những hành động không ngừng và bao giờ cũng mở khắp, ngài sẽ phụng sự chúng sanh cho đến sự chấm dứt của sanh tử suốt khắp cả không gian vũ trụ!

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567