Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tổ Sư Long Thọ (Nagarjuna)

16/09/202011:12(Xem: 12225)
Tổ Sư Long Thọ (Nagarjuna)


86_TT Thich Nguyen Tang_To Long Tho


Nam mô A Di Đà Phật
Kính bạch Sư Phụ


Bạch Sư Phụ, hôm nay Sư Phụ giảng về  Tổ thứ  14 của Phật Giáo Ấn Độ, đó là Tổ Sư Long Thọ (Nagarjuna).

Tổ Long Thọ xuất thân trong một gia đình Bà la môn, giàu có , Ngài ra đời khoảng bán thế kỷ thứ nhất  từ 150 Tây lịch và viên tịch khoảng năm  250 TL , sau 600 năm Đức Thế Tôn nhập diệt.

Ngài học rất giỏi ,thuộc làu 18 bộ kinh Vệ Đà, thiên văn,địa lý, y học ...
Ngài nổi tiếng về huyền thuật, giả kim thuật, vềsau Ngài đã biến sắt thành vàng để cứu đói cho một chùa có 8000 đệ tử  vào lúc mất mùa hạn hán.

Ngài tàng hình vào cung vua để  vui chơi, bị lộ , Ngài về miền Bắc ẩn tu.

Ngài gặp được Tổ thứ 13 Ca Tỳ Ma La độ cho xuất gia, trở thành Tổ thứ 14

Ngài Long Thọ được xem như là hậu thân của Đức Phật Thích Ca,  ngài có đủ 32 tướng tốt , 80 vẻ đẹp, trên đầu có nhục kế. Ngài là một trong sáu Đại Sư lừng danh của PG Ấn Độ: 5 vị kia là: 1/Cana-đề Bà; 2/Vô Trước; 3/Thế Thân; 4/ Trần-na; 6/Pháp Xứng, và ngài được xếp vào 84 vị Đại thành tựu hành giả của Mật Tông Tây Tạng. 


Ngài để lại 40 Bộ Luận, trong đó có Trung Quán Luận và Đại Trí Độ Luận là 2 luận bản tim óc của ngài được thế giới loài người biết đến nhiều nhất.

Bạch Sư Phụ, con rất vui mừng khi được Sư Phụ cho đại chúng xem Bộ sách quý này Đại Trí Độ Luận (5 tập) bản Việt của Ôn Thiện Siêu, và con rất vui mừng được sư phụ hứa sẽ giảng khi có thời gian trong tương lai.  Con nghe SP kể sơ lược cốt tủy là tim óc của Đức Thế Tôn, của Bồ tát Long Thọ, con cũng ước mong được dự học.

Cuối đời về sống ở  Nagajuna-konda (đồi Long Thọ), nơi này bây giờ là thàh phố Guntur, tiểu bang Andhra Pradesh (Nam Ấn) cách thủ đô Delhi khoảng 1,800km.

Ngài thấy dân chúng ở đây chỉ tu Phước , không tu Huệ .

Người tu Phước thì Đặng Phước lộc vật chất, giàu sang, và sanh tâm Ngã mạn .  Khi hết Phước thì rơi xuống bần cùng.

Tổ Long Thọ dạy dân chúng phải lo tu Phật, thì Phước mới giử được lâu, dân chúng hỏi Phật tánh lớn hay nhỏ.

Tổ Long Thọ trả lời " Phật tánh không có hình tướng không thể thấy được, chỉ khi nào chứng đắc thì mới nhận ra được .

Dân chúng nghe Tổ nói thấy hợp lý ,và theo Tổ học pháp.
Ca Na Đề Bà, con một tỷ phú đến nghe pháp.  Tổ LT  biến tướng bay lên hư không biến mất , và phát ra âm thanh thuyết pháp.
Ca Na Đề Bà liểu tri được pháp, Tâm Phật như hư không như ánh sáng của trăng tròn ,   rõ biết tất cả .

Tổ LT đến quốc gia bên cạnh thuyết pháp, vua ở quốc gia này tin theo 5000 người tu ngoại đạo.
Tổ LT, dùng thẩn thông biến hoá khiến Vua quy phục và xin  quy y làm đệ tử của Tổ.   Tổ dạy Vua phải theo giáo lý Từ Bi mà trị quốc, bỏ tà đạo.

Tổ Long Thọ truyền pháp ấn chứng cho Ca Na Đề Bà  là Tổ thứ 15.

Một thông điệp Triết thuyết siêu Việt , có tính cách khoa học nhân văn ,thích hợp trong tất cả hoàn cảnh không gian, thời gian  cho đến hiện tại và xuyên suốt vô tận về sau.

Thông điệp Triết thuyết của Ngài được được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới , làm sáng tỏ Giáo Lý của Đức Thế Tôn trong thế kỷ hiện tại .
Tất cả pháp trên thế gian  Đương Thể Tức Không.  Vô Thường.

Tất cả vật chất luôn biến dạng

Hình hài Con người biến dạng trong từng sát na, mọi loài, mọi vật ...cũng đều như vậy.

Chỉ duy nhất Tâm Phật trong sáng  luôn thường hằng bất diệt nơi tất cả chúng sanh.

Tu là đoạn trừ vô minh của thất tình lục dục, để lực sáng của Chơn Tâm hiển lộ , không còn là ánh trăng dưới lòng sông..

Nhất tâm đảnh lễ Nam mô Đệ Thập Tứ Tổ Long Thọ Tôn Sư.

Con kính tri ơn Sư Phụ mỗi ngày ban cho chúng đệ tử một bài pháp huyền diệu tuy thần thông nhưng là thần lực phương tiện để diễn đạt pháp tối cao    Tâm Phật ngay bây giờ và tại đây trong tất cả chúng sanh vạn loại.

Chỉ cần buông xuống tâm phàm là chứng đắc.

Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)



Ý kiến bạn đọc
17/09/202010:00
Khách
Thật cảm ơn Cô QTT , Cô viết rõ và mạch lạc, công đức vô lượng 🙏🙏🙏
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 3061)
Điều tốt đẹp mà người mẹ, người cha, hay bất luận thân bằng quyến thuộc nào có thể làm, một cái tâm hướng thiện có thể, và nâng ta lên đến mức cao quý (2). Lời dạy này được Đức Phật ban truyền trong khi Ngài ngự tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên), trong thành Savatthi, chuyện liên quan đến một ông quan giữ kho. Câu chuyện bắt đầu tại thị trấn Soreyya và kết thúc tại Savatthi.
08/04/2013(Xem: 3688)
Vào lúc hoàng hôn, vầng thái dương dần dần đắm chìm xuống chân trời ở Phương Tây. Ánh sáng của mặt trăng rằm từ từ ló dạng ở Phương Đông. Ngày đã chấm dứt, và màn đêm bắt đầu phủ xuống. Vào lúc bấy giờ vị đạo sĩ ẩn dật tên Upagupta, đệ tử của Đức Phật, rời xa liêu cốc của mình, an nghỉ bên cạnh một con đường đầy cát bụi, dưới vòm trời mịt mờ u tịch, gần vách thành của thị trấn Mathura, Ấn Độ
08/04/2013(Xem: 3534)
Ngày nay, người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số nước ta, cũng như trên thế giới. Chẳng những đông về số lượng, người phụ nữ còn giữ nhiều vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc gia hoặc quốc tế. Có thể nói song song với nhịp tiến hóa của nhân loại, người phụ nữ ngày nay đã thăng hoa tri thức và tài năng trong nhiều lãnh vực khác nhau.
08/04/2013(Xem: 3262)
Phật giáo được du nhập vào Hàn Quốc đến nay hơn 1.600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc lại không có nhiều ghi nhận về hoạt động của Ni giới. Thật ra ở Hàn Quốc, Ni giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37 trước Tây lịch - 668 sau Tây lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson 1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy trì và phát triển. Tùy địa phương khác nhau mà vị trí, vai trò và sự biểu hiện của Ni giới trong Phật giáo cũng đa dạng tùy duyên.
08/04/2013(Xem: 3373)
Giới học giả đã bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có những ý kiến mới ...
08/04/2013(Xem: 3793)
Khi Đức Phật Siddhattha Gotarna (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm) thị hiện ở Ấn Độ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người phụ nữ có một địa vị rất thấp kém và đê hèn trong xã hội Ấn Độ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp, vị trí của người phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng Đức Phật là người đã sáng lập một tôn giáo được truyền bá sâu rộng trên thế gian, phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng loài người.
08/04/2013(Xem: 4841)
Ngôi tự viện nằm phía Đông thành Savatthi là do bà Visakha, vị nữ thí chủ nhiệt thành của Đức Phật, dâng cúng. Bà được Đức Phật ngợi khen là đứng hàng đầu các bà tín nữ. Nhưng hơn nữa, câu chuyện sau đây của bà Visakha và những lời dạy bảo của ông cha bà cho thấy rằng vào thời bấy giờ người ta đối xử rất nghiêm khắc đối với hàng phụ nữ. Mặc dầu thái độ gắt gao đối với nữ giới và mặc dầu cuộc sống của người phụ nữ có rất nhiều giới hạn, nhờ đức tin dũng mãnh nơi Giáo Huấn của Đức Phật, bà Visakha đã có khả năng vượt lên trên những giới hạn ấy.
08/04/2013(Xem: 7346)
Khi đất trời vạn vật được hình thành và con người được xuất hiện trên quả đất nầy, thì giới tính đã được phân chia rõ ràng: Đó là người nam hay người nữ. Từ những thuở xa xưa vai trò và vị trí của người nữ đã sánh vai cùng nam giới trong mọi lãnh vực của cuộc sống và từ đó cộng đồng xã hội đã được hình thành, trật tự xã hội được ổn định và con người càng ngày càng tiến xa hơn ở những lãnh vực khác nhau như văn hóa, chánh trị, giáo dục, v.v…
08/04/2013(Xem: 15850)
Trong cuộc sống, có người quan niệm tâm lý là sự hiểu biết về ý muốn, nhu cầu, thị hiếu của người khác, là sự cư xử lý tình huống của một người. Đôi khi người ta còn dùng từ tâm lý như khả năng “chinh phục đối tượng”.
01/04/2013(Xem: 6408)
“ Đức Phật dạy chư tỳ kheo có bổn phận suy xét hằng ngày 4 điều: Ân đức Phật, rãi tâm từ, niệm sự chết và quán bất tịnh!”. Hành giả cần phải: Hành 14 giờ chính thức mỗi ngày bằng thiền, trong tư thế ngồi và đi ...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567