Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

54. Lục Tổ Huệ Năng (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm ghi chép cảm tưởng)

14/08/202011:45(Xem: 22319)
54. Lục Tổ Huệ Năng (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm ghi chép cảm tưởng)

54_TT Thich Nguyen Tang_Luc To Hue Nang


Nam Mô A Di Đà Phật


Kính bạch Sư Phụ,


Bạch Sư Phụ hôm nay SP giảng bài kệ thứ  54 trong Nghi Đảnh Lễ Tam Bảo do Đức Trưởng Lão Hòa Thượng Thích Trí Thủ biên soạn (1909-1984).


Bài kệ hôm nay được trích trong Kinh Pháp Bảo Đàn, cũng là bài kệ ngộ đạo của Lục Tổ Huệ Năng:

Bồ đề vốn không cây
Gương sáng không có đài
Xưa nay không một vật
Chỗ nào dính bụi trần.

Sư Phụ giảng về lịch đại tổ sư truyền giáo từ Ấn Độ đến Trung Hoa rồi đến Việt Nam theo lời tiên tri của sơ tổ Bồ Đề Đạt Ma “ Nhất hoa khai ngũ diệp”, tức là một hoa trổ ra 5 cánh, 5 cánh đó là ngài Huệ Khả, Tăng Xán, Đạo Tín, Hoằng Nhẫn và Huệ Năng. 5 cánh hoa đó cũng biểu trưng cho 5 tông phái thiền sau thời đại của Lục Tổ Huệ Năng là: 1-Lâm Tế, 2-Quy Ngưỡng,3-Tào Động,4-Vân Môn,5-Pháp Nhãn.
 

Sư phụ kể rõ dòng truyền thừa xuyên suốt từ Sơ Tổ Ca Diếp bên Ấn Độ, đến Lục Tổ Huệ Năng, truyền xuống cho Ngài Nam Nhạc Hoài Nhượng, Mã Tổ Đạo Nhất, Bách Trượng Hoài Hải, Hoàng Bá Hy Vận rồi Ngài Lâm Tế Nghĩa Huyền, rồi Ngài Minh Hoàng Tử Dung có công truyền sang Thuận Hóa (cố đô Huế), năm  1690 Thiền sư Tử Dung khai sơn chùa Ấn Tôn ( tức chùa Từ Đàm ngày nay), rồi Ngài Liễu Quán từ Phú Yên ra Huế tu học và đắc Pháp với Tổ Minh Hoàng Tử Dung, và xuất bài kệ truyền Pháp như sau:

Thiệt tế đại đạo

Tánh hải thanh trừng

Tâm nguyên quảng nhuận,

Đức bổn từ phong

Giới định phước tuệ

Thể dụng viên thông

Vĩnh siêu trí quả

Mật khế thành công

Truyền trì diệu lý

Diễn xướng chánh tông

Hành giải tương ứng

Đạt ngộ chơn không.


Con hết sức vui mừng được biết Sư phụ là đệ tử truyền thừa  theo dòng Thiền Lâm Tế Liễu Quán đời thứ 10, có nghĩa là dòng truyền thừa giác ngộ từ Hy Mã Lạp Sơn Ấn Độ đến Tu Viện Quảng Đức, Úc Châu chưa bao giờ bị gián đoạn trong suốt 26 thế kỷ qua.

 Ngài Lục tổ được tôn kính như một vị Phật, Xá lợi nhục thân Ngài, sau 1,300 năm vẫn còn nguyên vẹn, rất linh thiêng, và hiện được để tôn thờ trong  Lục Tổ Điện ở Chùa Nam Hoa ở Quảng Châu. Thời gian diễn ra phong trào cách mạng văn hóa (1966-1976) của Mao Trạch Đông, hồng vệ binh dùng búa đập phá nhục thân xá lợi của Lục Tổ  nhưng búa dội ngược lại, họ sợ và quỳ lại sám hối và không dám mạo phạm với ngài nữa.


Sư Phụ có dẫn đoàn hành hương Tu Viện Quảng Đức năm 2015  đến viếng Chùa Nam Hoa của Lục Tổ, chùa rộng 12 ngàn mét  vuông rất đẹp, có Ngũ Hương Đình, có Phóng Sanh Hồ…Sư Phụ có thỉnh bình nước Tào Khê ở nơi thánh địa Quảng Châu.

Xá lợi nhục thân của Tổ là một dấu ấn sắt son của Bồ Đề Tâm, Phật Tâm, có trong tự thân của tất cả chúng sanh .


Bạch Sư Phụ ,con rất tâm đắc bài kệ phó chúc của Tổ, con vẫn trì tụng trong mỗi thời tĩnh tọa lễ Phật .
.........nếu nhằm trong tánh hay tự thấy
         Tức là nhân Bồ đề thành Phật......
Lời dạy của Tổ không khác lời dạy của Phật nên được gọi là Kinh. Kinh Pháp Bảo Đàn được Lưu truyền từ 1300 năm nay.

Kính Pháp Bảo Đàn có mười chương .
Mỗi chương từ tiểu sử của Ngài đến cuối cùng lời phó chúc đều nói lên sự thấy tự tánh là đạt đạo đạt ngộ, đòi hỏi hành giả ly dục, ly ác pháp, không chấp tâm, chấp ngã, chấp pháp để chứng ngộ tánh không.
   
Con kính tri ơn Sư Phụ, mỗi ngày ban pháp thoại cho đại chúng được thừa hưởng bài thuốc pháp của Phật, trưởng dưỡng đạo tâm và tinh tấn tu hành trên đường trở về cội nguồn tâm linh

Nam mô Đệ Lục Tổ Huệ Năng Tôn Sư tác đại chứng minh.

Cung kính,
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/04/2013(Xem: 5104)
Bát Kính Pháp đã từng là đề tài cho nhiều nhà nghiên cứu Phật học Đông Tây quan tâm. Không phải một mình Sư Cô Thích Chiếu Huệ ở Đài Loan đề nghị bỏ Bát Kính Pháp mà từ trước và cho đến nay nhiều nhà nghiên cứu đã phân tích, đánh giá và soi sáng vấn đề dưới nhiều khía cạnh khác nhau, trong đó ngầm ý kêu gọi nên xoá bỏ Bát Kính Pháp.
08/04/2013(Xem: 3640)
Ở nước ta, khi còn là đất Giao Chỉ thuộc nhà Hán, nhà Ngô, thế kỷ thứ 2 Tây lịch, đã có các Tăng người Ấn Độ sang ở thành Luy Lâu (huyện Siêu Loại, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh), các Sa-môn này lập am thờ Phật ở chung, đấy là các Tăng đầu tiên của Phật Giáo nước ta. Số Tăng chắc đã khá đông khi Mâu Tử viết sách Tri hoặc Luận tại Luy Lâi vào cuối thế kỷ thứ 2. Còn đến bao giờ mới có nữ giới tu đạo Phật, thành Sa-di-ni, Tỷ-khưu-ni, ta không biết được vì không có sách chép.
08/04/2013(Xem: 4151)
Đã tạo được nhiều phước báu trong quá khứ, vào thời của Đức Phật Siddhattha Gotama, Bậc Tôn Sư Toàn Giác Tối Thượng, nàng Subha tái sanh vào gia đình của một vị bà la môn khả kính tại Rajagaha (Vương Xá, ngày nay là Rajgir, Ấn Độ). Nàng có sắc đẹp tuyệt trần, trong toàn thể thân nàng chỗ nào cũng dễ mến, vì lẽ ấy có tên là Subha. Khi Đức Bổn Sư ngự tại Rajagaha cô đặt niềm tin (saddha) vững chắc nơi Ngài và trở thành một nữ thiện tín.
08/04/2013(Xem: 3325)
Điều tốt đẹp mà người mẹ, người cha, hay bất luận thân bằng quyến thuộc nào có thể làm, một cái tâm hướng thiện có thể, và nâng ta lên đến mức cao quý (2). Lời dạy này được Đức Phật ban truyền trong khi Ngài ngự tại Tịnh Xá Jetavana (Kỳ Viên), trong thành Savatthi, chuyện liên quan đến một ông quan giữ kho. Câu chuyện bắt đầu tại thị trấn Soreyya và kết thúc tại Savatthi.
08/04/2013(Xem: 4020)
Vào lúc hoàng hôn, vầng thái dương dần dần đắm chìm xuống chân trời ở Phương Tây. Ánh sáng của mặt trăng rằm từ từ ló dạng ở Phương Đông. Ngày đã chấm dứt, và màn đêm bắt đầu phủ xuống. Vào lúc bấy giờ vị đạo sĩ ẩn dật tên Upagupta, đệ tử của Đức Phật, rời xa liêu cốc của mình, an nghỉ bên cạnh một con đường đầy cát bụi, dưới vòm trời mịt mờ u tịch, gần vách thành của thị trấn Mathura, Ấn Độ
08/04/2013(Xem: 3812)
Ngày nay, người phụ nữ chiếm tỷ lệ khá cao trong dân số nước ta, cũng như trên thế giới. Chẳng những đông về số lượng, người phụ nữ còn giữ nhiều vai trò quan trọng trong cộng đồng quốc gia hoặc quốc tế. Có thể nói song song với nhịp tiến hóa của nhân loại, người phụ nữ ngày nay đã thăng hoa tri thức và tài năng trong nhiều lãnh vực khác nhau.
08/04/2013(Xem: 3558)
Phật giáo được du nhập vào Hàn Quốc đến nay hơn 1.600 năm, nhưng lịch sử của Phật giáo Hàn Quốc lại không có nhiều ghi nhận về hoạt động của Ni giới. Thật ra ở Hàn Quốc, Ni giới đã có công lớn trong việc truyền bá Phật pháp ở những giai đoạn đầu của lịch sử. Qua các thời đại Tam kinh (37 trước Tây lịch - 668 sau Tây lịch), Silla Thống nhất (668-935), Goryeo (còn gọi Goh Ryur hoặc Koryo, 918-1392), Joreon (còn gọi Joh Surn hoặc Choson 1392-1910) và thời hiện đại ngày nay, Phật giáo tiếp tục được duy trì và phát triển. Tùy địa phương khác nhau mà vị trí, vai trò và sự biểu hiện của Ni giới trong Phật giáo cũng đa dạng tùy duyên.
08/04/2013(Xem: 3701)
Giới học giả đã bỏ ra không ít thời gian và giấy mực để bàn về chuyện bình đẳng hay không bình đẳng giữa Tăng và Ni với những giới luật chênh lệch từ thời đức Phật. Nhận thấy đây là vấn đề hay nên tôi cũng thường lưu tâm khi có những ý kiến mới ...
08/04/2013(Xem: 4164)
Khi Đức Phật Siddhattha Gotarna (Sĩ Đạt Ta Cồ Đàm) thị hiện ở Ấn Độ cách nay hơn 2,500 năm về trước, người phụ nữ có một địa vị rất thấp kém và đê hèn trong xã hội Ấn Độ. Vào thời bấy giờ, trong phần còn lại của thế giới văn minh, trải dài từ Trung Hoa đến Hy Lạp, vị trí của người phụ nữ vẫn khiêm nhường và hạ cấp. Ngày nay, cùng khắp nơi ai ai cũng nhìn nhận rằng Đức Phật là người đã sáng lập một tôn giáo được truyền bá sâu rộng trên thế gian, phổ cập đến những hang cùng hóc hẻm của quả địa cầu, đã ban truyền một triết lý huy hoàng và vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng loài người.
08/04/2013(Xem: 5353)
Ngôi tự viện nằm phía Đông thành Savatthi là do bà Visakha, vị nữ thí chủ nhiệt thành của Đức Phật, dâng cúng. Bà được Đức Phật ngợi khen là đứng hàng đầu các bà tín nữ. Nhưng hơn nữa, câu chuyện sau đây của bà Visakha và những lời dạy bảo của ông cha bà cho thấy rằng vào thời bấy giờ người ta đối xử rất nghiêm khắc đối với hàng phụ nữ. Mặc dầu thái độ gắt gao đối với nữ giới và mặc dầu cuộc sống của người phụ nữ có rất nhiều giới hạn, nhờ đức tin dũng mãnh nơi Giáo Huấn của Đức Phật, bà Visakha đã có khả năng vượt lên trên những giới hạn ấy.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]