Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chuẩn Bị cho Sự Gia Trì Năng Lực

15/12/201015:30(Xem: 12899)
Chuẩn Bị cho Sự Gia Trì Năng Lực

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

ChuẩnBị cho Sự Gia Trì Năng Lực

Để tiến hành một buổi lễ giatrì năng lực, đòi hỏi một mạn-đà-la, là cung điệnbất khả tư lường [không thể đo lường] hay một nơi thường trụ củabổn tôn. Có nhiều loại mạn-đà-la: mạn-đà-la được tạo nên bởi sự tập trung tinh thần, mạn-đà-la tranh vẽ, mạn-đà-la cát, và cũng trong Mật thừaDu-già Tối Thượng, mạn-đà-la thân thể được căn cứ trên thân thể của Đạo sư[guru, thiện xảo sư], và các mạn-đà-la của Bồ-đề tâm tương đối[1].

Trong tất cảcác mạn-đà-la này, mạn-đà-la cát là chính yếu, bởi vì nó là mạn-đà-la duy nhất cho sự chuẩn bị củatất cả các nghi thức liên hệ đến sự dâng lễ lên đạo trường, dây phù hộ v.v… có thể được thực thi. Nó cũng phối hợp sựtiến hành những điệu múa lễ, bao gồm những thế uốn khác nhau của bàn tay và bước chân.

Có nhiều loại điệu múa lễkhác nhau. Một thứ được tiến hành khi dâng cúng đạo trường nơi mạn-đà-la được tạodựng. Một thứ khác được biểu diễn sau khi hoàn thành mạn-đà-la, như một cúng dường đến những bổn tôn của mạn-đà-la.Thêm nữa, có một loại múa nghi lễ được gọi là Cham[2], mànó liên hệ đến những hoạt động cho sự vượt thắng các chướng ngại.

Nhiều tự viện nhỏ chuyên môntrong việc biểu diễn những điệu múa nghi lễ này, nhưng chúng ta có thể hỏi sựthấu hiểu của họ về biểu tượng, và ý nghĩa đằng sau những điệu múa này. Hầu hếtmọi người quan tâm sự biểu diễn của họ như một sự trình diễn, một loại hình sânkhấu. Điều này là một phản ánhsự thật đáng buồn rằng các Mật thừa đangthoái hóa. Tôi đã từng đọc trong lịch sử Ấn Độ rằng một trong những nhântố chosự suy đồi của Mật thừa và giáo thuyết nhà Phật ở Ấn Độ là sự phát triểndư thừa trong các thựchành Mật thừa. Nếu một hành giả thiếu những nền tảng căn bản vốn là những điều kiện tiên quyết cho thựchành Mật thừa, thì những kỹ năng và thiền quán Mật thừa có thể chứng tỏ nguy hại hơn là lợi ích. Đấy là lý do tại sao sự thực hành Mật thừa đượcgọilà ‘bí mật’.

Chúng ta nên nhớ rõ trong tâm thức rằng ngay cả trong nhữngtác phẩm mật điển, các thệ nguyện giảithoát cá nhân [tỳ kheo giới] được tándương một cách cao độ. Mật thừa căn bản Thời Luân, vua cả tất cảMật thừa Du-già Tối Thượng, đề cập rằng trong những vị Kim Cương Đạo Sư khácnhau tiến hành giảng dạy vànghi lễ, tu sĩ cụ túc giới là cao nhất, sa di là mứctrung, và cư sĩ là thấp nhất. Hơn thế nữa, trong quá trình tiếp nhận một sựquán đảnh, có những loại thệ nguyện khác nhau được thực thi. Thệ nguyện Bồ-tát giới có thể đượctiếp nhận trong sự hiện diện hình tượng của đức Phật, không có đạo sư tronghình thể con người. Những thệ nguyện giải thoát cá nhân và thệ nguyện Mật thừatrái lại phải được tiếp nhận từ một người sống trong hình thức một guru.

Nếu quý vị muốn thăng tiến thành công trong lộ trình Mật thừa,điều cần thiết là quý vị phải tiếp nhậnsự truyền lực và gia trì của truyền thừa không gián đoạn bắt nguồn từ đức PhậtKim Cương Trì [Buddha Vajradhara] từ đạo sư của quý vị, nhằm kích khởi một khả năng tiềm ẩn trong tâm thứcquý vị để hiện thực hóa trạng thái kếtquả của Phật quả. Điều này được đạt đến bằng nghi lễ gia trì năng lực. Do thế,trong sự thực hành Mật thừa, đạo sư là rất quan trọng.

Vì đạo sư đóng một vai tròquan trọng như thế trong sự thực hành tantra, nhiều tác phẩm Mật thừa đã phácthảo những phẩm chất của một vị đạo sư mật tông.

Một người ban quán đảnh phảinên có đủ phẩm chất. Vậy nên trước khi thực thi điểm đạo, điều quan trọng là kiểmtra xem người đạo sư có các phẩm chất này không. Được cho rằng ngay cả nếu phảimất mười hai năm để xác định được xem người thầy có sở hữu các phẩm chất đúng đắn,thì quý vị cũng nên bỏ thì giờ mà làm việc đó.

Một đạo sư Kim Cương đủ phẩm hạnh là một người thủ hộ ba cánh cửathân thể, lời nói, và tâm ý của vị ấy khỏi những hành vi tiêu cực, một người tếnhị và thông suốt trong ba vô lậu học -- giới, định, và tuệ. Thêm nữa, vị ấy phảisở hữu hai bộ, nội thể và ngoại vi, của mười nguyên lý[3]. Sư Sự Pháp Ngũ Thập Tụng[4]diễntả một người thiếu bi mẫn và hằn học, bị khống chế bởi những năng lực mạnh mẽ củadính mắc và thù hận và không có kiến thức của ba vô lậu học, khoe khoang chútít kiến thức mà vị ấy có, thì không đủ phẩmchất là một vị đạo sư mật tông. Nhưng nếu như một đạo sư mật tông phải sở hữu nhữngphẩm chất nào đấy, thì đệ tử cũng phảinhư vậy. Khuynh hướng hiện tạilà việc tham dự một lễquán đảnh bất kỳ được ban bởi bất cứmột vị đạo sư hay lạt-ma nào mà không có sự khảo sát trước, và tiếp nhận lễkhai tâm, rồi sau đó nói những điều chống lại vị thầy của mình là không tốt.

Nói về phần những vị đạo sư,điều cũng quan trọng là ban bố giáo huấn theo những cấu trúc tổng quát trong lộ trình Phật giáo và việc tiến hành theo khuôn khổ chung về lộ trình Phật giáo như là luật lệmà qua đó quý vị xác định đượcsự toàn vẹn những giáo huấn của quý vị.

Điểm đáng nêu làvị thầy không nên cảm thấy kiêu ngạo trong mối quan hệ gần gũi với các đệ tử của mình,người thầy có quyền tối thượng vàcó thể làm bất cứ điều gì mình muốn. Có mộtchâm ngôn của Tây Tạng rằng, ‘Mặc dù quý vị có thể đồng đẳng với những bổn tôntrong khuôn khổ của sự thực chứng,nhưng lối sống của quý vị nên phù hợp với phương cách của những người khác.’



[1]Tâm bồ-đề [bồ-đề tâm] hay tâm giácngộ được phân làm hai loại 'bồ-đề tâm tương đối' và 'bồ-đề tâm tối thắng' [bồ-đềtâm tuyệt đối]. Bồ-đề tâm tương đối dẫn xuất ước muốn từ bi để thành tựu giácngộ vì lợi ích cho tất cả chúng sinh và để rèn luyện bằng cách phương tiện để đạtmụch đích đó. Bồ-đề tâm tối thắng là trí huệ trực tiếp vào bản chất vô ngã củacác pháp.

Bồ-đề tâm tương đối còn được phân biệtgiữa 'bồ-đề tâm nguyện' và 'bồ-đề tâm hành', được mô tả bởi ngài Tịch Thiên nhưlà sư phân biệt giữa việc quyết định tiến hành [lý tưởng vị tha] và việc thật sựđang tiến hành.

"Bodhichitta".<http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Bodhichitta>. Truy cập02/09/2010.

[2]Vũ điệu Cham liên hệ đến một số bộphái của Phật giáo Tây Tạng, người tham gia sẽ dùng đến các trang phục riêng biệt.Vũ điệu được đệm kèm bởi âm nhạc đánh lên bởi các tu sĩ sử dụng nhạc cụ truyềnthống Phật giáo Tây Tạng. Các vũ điệu thường có nội dung giới hạnh quan hệ đếntừ bi cho chúng sinh và được diễn để mang lại công đức cho tất cả những ai nhậnthức chúng.

"Cham Dance". Wikipedia.<http://en.wikipedia.org/wiki/Cham_Dance>. Truy cập 07/09/2010.

[3]Theo ngài Tsongkhapa, thì Kim Cương Tâm Yếu Trang Nghiêm Mật Điển(Vajra-hṛdayālaṃkāra-tantra) có nêu mười nguyên lý nội thể và ngoại vi. Cácnguyên lý nội thể [mật] là: [1-2] hai nghi thức hồi chuyển [của hiểm nguy vàngăn trở], [3-4] [gia trì năng lực] trí huệ bí mật và siêu việt, [5] nghi thứccho việc phân chia những ai đang được khẻ chạm, [6] cúng dường bánh và [7] KimCương trì tụng, [8] nghi thức về hoàn tất mãnh liệt, [9] ban phước các hình tượng,và [10] hoàn tất mạn-đà-la. Các nguyên lý ngoại vi là: [1] mạn-đà-la vòngthiêng liêng, [2] định (thiền chỉ), [3] thủ ấn (uốn tay), [4] bái đứng, [5] báingồi, [6] tụng, [7] nghi thức (tịnh) hỏa, [8] cúng dường, [9] áp dụng vào hoạtđộng, và [10] đúc kết.Ngài Tsongkhapa cũng giải thích thêm về nhiều chi tiết về10 nguyên lý nội thể và ngoại vi. Xem thêm chi tiết:

"The fulfillment of all hopes:guru devotion in Tibetan Buddhism". Tsoṅ-kha-pa. p41-47. Wisdom. 1999.ISBN 086171153x.

[4]Tên Phạn ngữ là gurupañcāśikā. Đâylà bài luận thuyết gồm 50 đoạn kệ của ngài Mã Minh (Aśvaghoṣa) (thế kỷ1-2) liên hệ chặt chẽ đến Mật thừa Du-già Tối Thượng nói về phương pháp tìm thiệnxảo sư [guru] và về cách ứng xử trong quan hệ thầy trò. Từ đoạn kệ thứ 7 -9 nóivề phẩm chất của vị thiện xảo sư và các đoạn kệ sau đó (10-48) nói về ứng xử củathầy trò.

"Lama Nga-chu-pa" (TheFifty Verses on Guru Devotion). Luận giải bởi Tsongkhapa. Trans by Sharpa Tulkuet all. Library of Tibetan Works. 1975. PDF.

“50 Verses on Guru Devotion”. Aśvaghoṣa. View On Buddhism.<http://viewonbuddhism.org/resources/50_verses_guru_devotion.html>. Truycập 23/08/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 9272)
Thời Phật còn tại thế, tại thành Đức Xoa Tỳ La có một mỹ nữ sắc nước hương trời, tên là Liên Hoa Sắc, con một trưởng giả vô cùng sang giàu. Lúc lên 16 tuổi Liên Hoa Sắc lấy chồng. Sau thời gian chung sống với chồng, Liên Hoa Sắc sinh một bé gái, nhưng cảnh đời trớ trêu cha chồng chết sớm, mẹ chồng còn xinh đẹp, sinh lý còn cường thịnh, bà dụ dỗ chồng của Liên Hoa Sắc vào con đường mất hết đạo lý, bà còn đối xử tệ bạc với Liên Hoa Sắc, đúng là mẹ chồng nàng dâu theo thường tình. Bà cấm Liên Hoa Sắc không tiếp xúc nhiều với con bà, và xem Liên Hoa Sắc không khác hầu thiếp của bà.
09/04/2013(Xem: 7419)
Đạo Phật là đạo của bình đẳng. Phật nói " Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật tử sẽ thành." Bởi thế, theo lời khẩn cầu của tôn giả A Nan, Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là con thứ ba của A Noa của thích Ca vương, vua thành Thiện Tý, nước Kosala. Bà cũng là em gái của bà Ma Da phu nhân, là di mẩu của Phật Thích Ca. Con của bà là Nan Đà. Tuy nhiên tình thương của bà dành cho Tất Đạt Đa nhiều hơn.
09/04/2013(Xem: 3709)
Cuộc đời và tiểu sử Bà Maha Pajapati Gotami, sự xuất gia của bà và sau đó sự thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói và hấp dẫn nhất trong văn học Phật Giáo. Nó biểu lộ cùng lúc trí tuệ thấy xa và lòng nhân đạo của Đức Phật Đại Từ Đại Bi. Hơn nữa nó cho thấy đến mức nào năng lực hùng mạnh của sự quyết tâm bất khuất, bất thối chuyển và lòng quả cảm của một thiếu phụ có thể gieo ảnh hưởng đến xã hội đương thời.
09/04/2013(Xem: 3845)
Đức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Savatthi (Sravasti, Xá Vệ), Ấn Độ, tại Kỳ Viện Tịnh Xá của Trưởng Giả Anathapindika, Cấp Cô Độc. Vào lúc ấy Đại Đức Ananda, vị đệ tử trung kiên và là thị giả chuyên cần nhất của Đức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ, Trưởng Lão Ananda y phục chỉnh tề, tay ôm bình bát, chân thong dong đều đặn từng bước, và mắt nhìn xuống, đi vào thành Savatthi.
09/04/2013(Xem: 3773)
Quan niệm về quyền lợi phụ nữ xưa nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên bình diện đạo đức xã hội. Sự ra đời cụm từ ‘quyền lợi phụ nữ’ (women’s rights) hàm ý người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Cụm từ này có thể đã dẫn đến sự hình thành nhiều phong trào tích cực trong lịch sử phát triển xã hội.
09/04/2013(Xem: 5252)
Trong bài viết này, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ trình bày khái quát về hiện thực Phật giáo Việt Nam và vai trò của ni giới Việt Nam ngày nay. Phần thứ nhất là giới thiệu về Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có 3 truyền thống lớn: Bắc tông (Mahayàna), Nam tông (Theravada), và Khất sĩ. Tuy hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng cả 3 truyền thống này đều có tăng ni tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam; và vai trò của Ni giới Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trên nền tảng của tổ chức Phật giáo duy nhất này.
09/04/2013(Xem: 5172)
Giới thiệu : Bài này được trích từ tuyển tập những bài tham luận đọc tại các Hội Nghị Quốc Tế do Hội Ni Giới Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita tổ chức, nhan đề “ Bước Ra Khỏi Bóng Tối: Ni Giới Dấn Thân vào Xã Hội” (Out of the Shadows: Socially Engaged Buddhist Women), đo Ni Sư Karma Lekse Tsomo xuất bản năm 2006.
08/04/2013(Xem: 7457)
Từ lâu Ni giới có một vị trí thấp trong Xã Hội Campuchia, dường như họ không được thừa nhận và hoàn toàn bị lưu mờ bởi Tăng giới Phật giáo trong xứ sở này. Hầu hết các nữ tu không được học hành và không được tiếp nhận bất cứ một giáo dục Phật học nào. Hình ảnh đoàn thể của họ bị mang tiếng xấu bởi một số cá nhân đi khất thực trái phép.
08/04/2013(Xem: 3769)
Vai trò và vị trí của nữ giới và nam giới trong xã hội thường được ấn định khác nhau trong các vùng văn hóa khác nhau. Vì các lý do chính trị, xã hội hay tôn giáo, từ xưa nam giới thường được đề cao, nữ giới thì giữ một vị trí khiêm tốn hơn, có nơi bị xem nhẹ, như ở các xã hội chủ trương "đa thê", "phụ thê", "nam nhất viết hữu, nữ thập viết vô", phụ nữ ra đường phải che mặt, chỉ đảm nhiệm công việc gia đình, hay phải chịu tổn phí cưới hỏi.... Thậm chí thiếu mất quyền làm chủ gia đình và quyền lợi về giáo dục.
08/04/2013(Xem: 3533)
Ni sư Houn Jiyu Kennett, người khai sơn và làm Ni trưởng ni viện Shasta ở bang California, Hoa Kỳ, là một trong những nữ tu theo PG đầu tiên ở phương Tây. Trong 30 năm hoằng pháp tại Hoa Kỳ, bà đã đem lại lợi lạc cho người dân ở xứ sở này qua việc thuyết giảng, viết sách báo... Các tác phẩm đáng chú ý nhất của bà là "Con ngỗng trắng hoang dã" (The wild white Goose), xuất bản năm 1977 và tái bản năm 1978 ; và "Dòng sông bán nước" (Selling water by the river) in năm 1972, đến năm 1978, quyển sách này được tái bản với tựa đề mới là "Thiền là đời sống vĩnh hằng" (Zen is Eternal life). Đây là những cuốn sách rất được các thiền sinh phương Tây ưa chuộng. Tuy nhiên, trong thời gian hoằng pháp tại các nước phương Tây, bà đã tự mình tách khỏi các tông phái thiền khác ở Mỹ và cả ở Nhật Bản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]