Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Đạo Pháp Của Tu Tập Mật Thừa – Mật thừa Hành Động

15/12/201015:32(Xem: 12842)
Những Đạo Pháp Của Tu Tập Mật Thừa – Mật thừa Hành Động

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

NhữngĐạo Pháp Của Tu Tập Mật Thừa – Mật thừa Hành Động

Trong những lớp thấp của Mật thừa, hai cấp độ của con đường đượcliên hệ đến, một cách kỹ thuật gọi là Du-già với các biểu tượng và Du-già khôngcó biểu tượng.[1]

Theo một quan điểm khác, Mật thừa Hành Động trình bày những con đườngcủa nó trong dạng thức của những phương pháp để hiện thực hóa thân Phật, khẩuPhật và tâm thức của Phật quả. Con đường để hiện thực hóa thân Phậtđược giải thích trong nội dung của việcquán tưởng bổn tôn. Con đường để hiện thực hóalời nói được diễn giải trong dạng thức của hai loại trì tụng mật chú mantra – mộtthì thầm một cách thật sự và loại kia là được trì tụng trong trí óc. Con đườngcho việc hiện thực hóa tâm thức của vịPhật dược giải thích trong khuôn khổ của điềuđược gọi một cách kỹ thuật là ‘sự tập trung vốn làđiều ban cho giải thoát vào lúc chấm dứt âm thinh’. Loại tập trung này đòi hỏinhư một sự chuẩn bị, giữ định tâm[2]trong lửa và giữ định tâm trong âm thanh.

Hiện Thực Hóa Thân Phật

Việc Mật thừa Hành Động có kết hợp chặt chẽhay không một sự thực tập về việcphát khởi chính mình thành bổn tôn là một điểm mà các đại sư có những ý kiến khác nhau. Tuynhiên, chúng ta có thể nói rằng thực tập sinh thông thường của Mật thừa Hành Độngkhông cần phải phát khởi chính họ thành bổn tôn. Thiền quán của họ được hạn chếmột cách đơn giản đến sự quán tưởng bổn tôn trong sự hiện diện của họ. Nhưng nhữngthực tập sinh chính yếu của Mật thừa Hành Động là những người có thể thật sựphát sinh chính họ thành những bổn tôn và là những người quán tưởng bổn tôn nhưmột căn bản như thế.

tongquan-13
Bổn tôn Quán Thế Âm Bồ-tát bốn tay (Quan Âm Tứ Thủ)

Bổn Tôn Du-già

Quán tưởng một bổn tôn như Quán Thế Âm chẳng hạn, hay bổn tôndu-già, như được giải thích trong một Mật thừa Hành Động và cho những thực tậpsinh chính của Mật thừa ấy, có thể được diễn tả trong sáu tầng bậc: bổn tôn tính Không, bổn tôn Mật mật chú, bổn tôn chủng tự, bổntôn thủ ấn, và bổn tôn biểu tượng.

Thiền quán về bổn tôn tính Không liên hệ đến sự thiền quán trên tínhKhông của chính tự ngã của hànhgiả và tự thể của bổn tôn – quánchiếu trên căn bản chung trong dạng thứcvề bản chất Không của họ.

Nói một cách tổng quát, như trong Tứ Bách Kệ TụngThánhThiên giải thích, theo quan điểm của bản chất tối hậu, không có sự khác biệt vềbất cứ điều gì giữa những hiện tượng – tất cả chúng là giống nhau trong điều làchúng thiếu vắng một sự tồn tại tự tính. Từ quan điểm cơ bản, chúng có cùng một mùi vị; do thế, điều đó nói về việcvô số trở nên một mùi vị. Và mặc dù tất cả chúng có cùng bảntính Không, nhưng trên mức độ quy ước thế gian, cáchiện tượng có nhiều sự biểu hiện khác nhau, do thế nó nói về vô số từ sự đồngnhất này.

Với thiền quán trên Bổn tônmật chú, quý vị quán tưởngâm vang của mật chú sinh khởi từ trạngthái Không, bản tính tối hậu của tự ngã của chínhhành giả và của bổn tôn. Đây không phải là hình thể của các mẫu tự, chỉ là âm thinh của bổn tôn mậtchú vang vọng. Duy trì sự quán chiếu này là bước thứ hai, thiền quán trên mật chú hay âm thinh của bổn tôn.

Trong sự thiền quán trên bổn tôn chủng tự, hành giả quán tưởng nhữngâm tiết của mật chú tự vang âmphát khởi trong hình tướng của những chủng tự trên một đĩa mặt trăng trắng,trong chính hành giả.

Tiếp theo, hành giả quán tưởng cácchủng tự của mật chú được phát khởi thành sắctướng thật sự của bổn tôn, mà đấy là thiền quán trên bổn tôn sắc tướng.

Thiền quán trên bổn tônthủ ấn xảy ra khi hành giả đã khởi hiện trong sắc tướng của bổntôn, tiến hành những thế xếp tay đặc biệt, vốn là trường hợp củadòng Liên Hoa[3][Hoa Sen] được thực thi tại tim.

Cuối cùng, thiền quán trên bổn tônbiểu tượng hay ký tượng là sựquán tưởng trên đỉnh của đầu, cổ họng, và tim của hành giả được đánh dấu mộtcách tôn kính bởi các âm tiết OM AHHUM và thỉnh những bậc trí huệ đi vào thân thể hành giả

tongquan-14
Các chữ Tạng Từ trên xuống Om Ah Hum
Om màu trắng, Ah màu đỏ và Hum màu xanh

[1]Theo trình bày của đức Dalai Lamatrong The world of Tibetan Buddhismthì trong bối cảnh thiền hay du-già có nhấn mạnh đến tu tập về tính Không đượcxem là thiền hay du-già không có biểu tượng và ngược lại nếu nó không phảilà tu tập đó lên tính Khôngthì nó là thiền hay du-già có biểu tượng.

“The World of Tibetan Buddhism: AnOverview of Its Philosophy and Practice”. P123. Dalai Lama. Thupten JinpaTrans. Wisdom. 1995. ISBN: 0861710975.

[2]Các thuật ngữ như “calm abiding”,“concentrate abiding” trong bài giảng này dùng trong cùng một ý nghĩa là trạngthái định tâm, tức là trạng thái tâm hoàn toàn vắng bặt các hôn trầm (mê ngủ)và trạo cữ (phấn khích) trong lúc thiền hay nói gọn hơn là hành giả hoàn toàn tậptrung vào đối tượng thiền và không còn bất kỳ xao lãng nào. Thuật ngữ cổ điểncòn gọi là “chỉ”.

[3]Dòng Liên Hoa đại diện bởi đức PhậtA-di-đà. Theo Mật thừa Bổn Tôn Du-già thì đây biểu tượng cho khẩu.

"Buddha-FamilyTraits (BuddhaFamilies) and Aspects of Experience”. The Berzin Archives.<http://www.berzinarchives.com/web/en/archives/advanced/tantra/level2_basic_theory/buddha_family_traits.htm>.Truy cập 02/09/2010. <http://www.rigpawiki.org/index.php?title=Aryadeva>.Truy cập 2/09/2010.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 9272)
Thời Phật còn tại thế, tại thành Đức Xoa Tỳ La có một mỹ nữ sắc nước hương trời, tên là Liên Hoa Sắc, con một trưởng giả vô cùng sang giàu. Lúc lên 16 tuổi Liên Hoa Sắc lấy chồng. Sau thời gian chung sống với chồng, Liên Hoa Sắc sinh một bé gái, nhưng cảnh đời trớ trêu cha chồng chết sớm, mẹ chồng còn xinh đẹp, sinh lý còn cường thịnh, bà dụ dỗ chồng của Liên Hoa Sắc vào con đường mất hết đạo lý, bà còn đối xử tệ bạc với Liên Hoa Sắc, đúng là mẹ chồng nàng dâu theo thường tình. Bà cấm Liên Hoa Sắc không tiếp xúc nhiều với con bà, và xem Liên Hoa Sắc không khác hầu thiếp của bà.
09/04/2013(Xem: 7419)
Đạo Phật là đạo của bình đẳng. Phật nói " Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật tử sẽ thành." Bởi thế, theo lời khẩn cầu của tôn giả A Nan, Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là con thứ ba của A Noa của thích Ca vương, vua thành Thiện Tý, nước Kosala. Bà cũng là em gái của bà Ma Da phu nhân, là di mẩu của Phật Thích Ca. Con của bà là Nan Đà. Tuy nhiên tình thương của bà dành cho Tất Đạt Đa nhiều hơn.
09/04/2013(Xem: 3709)
Cuộc đời và tiểu sử Bà Maha Pajapati Gotami, sự xuất gia của bà và sau đó sự thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói và hấp dẫn nhất trong văn học Phật Giáo. Nó biểu lộ cùng lúc trí tuệ thấy xa và lòng nhân đạo của Đức Phật Đại Từ Đại Bi. Hơn nữa nó cho thấy đến mức nào năng lực hùng mạnh của sự quyết tâm bất khuất, bất thối chuyển và lòng quả cảm của một thiếu phụ có thể gieo ảnh hưởng đến xã hội đương thời.
09/04/2013(Xem: 3845)
Đức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Savatthi (Sravasti, Xá Vệ), Ấn Độ, tại Kỳ Viện Tịnh Xá của Trưởng Giả Anathapindika, Cấp Cô Độc. Vào lúc ấy Đại Đức Ananda, vị đệ tử trung kiên và là thị giả chuyên cần nhất của Đức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ, Trưởng Lão Ananda y phục chỉnh tề, tay ôm bình bát, chân thong dong đều đặn từng bước, và mắt nhìn xuống, đi vào thành Savatthi.
09/04/2013(Xem: 3773)
Quan niệm về quyền lợi phụ nữ xưa nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên bình diện đạo đức xã hội. Sự ra đời cụm từ ‘quyền lợi phụ nữ’ (women’s rights) hàm ý người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Cụm từ này có thể đã dẫn đến sự hình thành nhiều phong trào tích cực trong lịch sử phát triển xã hội.
09/04/2013(Xem: 5252)
Trong bài viết này, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ trình bày khái quát về hiện thực Phật giáo Việt Nam và vai trò của ni giới Việt Nam ngày nay. Phần thứ nhất là giới thiệu về Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có 3 truyền thống lớn: Bắc tông (Mahayàna), Nam tông (Theravada), và Khất sĩ. Tuy hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng cả 3 truyền thống này đều có tăng ni tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam; và vai trò của Ni giới Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trên nền tảng của tổ chức Phật giáo duy nhất này.
09/04/2013(Xem: 5172)
Giới thiệu : Bài này được trích từ tuyển tập những bài tham luận đọc tại các Hội Nghị Quốc Tế do Hội Ni Giới Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita tổ chức, nhan đề “ Bước Ra Khỏi Bóng Tối: Ni Giới Dấn Thân vào Xã Hội” (Out of the Shadows: Socially Engaged Buddhist Women), đo Ni Sư Karma Lekse Tsomo xuất bản năm 2006.
08/04/2013(Xem: 7457)
Từ lâu Ni giới có một vị trí thấp trong Xã Hội Campuchia, dường như họ không được thừa nhận và hoàn toàn bị lưu mờ bởi Tăng giới Phật giáo trong xứ sở này. Hầu hết các nữ tu không được học hành và không được tiếp nhận bất cứ một giáo dục Phật học nào. Hình ảnh đoàn thể của họ bị mang tiếng xấu bởi một số cá nhân đi khất thực trái phép.
08/04/2013(Xem: 3769)
Vai trò và vị trí của nữ giới và nam giới trong xã hội thường được ấn định khác nhau trong các vùng văn hóa khác nhau. Vì các lý do chính trị, xã hội hay tôn giáo, từ xưa nam giới thường được đề cao, nữ giới thì giữ một vị trí khiêm tốn hơn, có nơi bị xem nhẹ, như ở các xã hội chủ trương "đa thê", "phụ thê", "nam nhất viết hữu, nữ thập viết vô", phụ nữ ra đường phải che mặt, chỉ đảm nhiệm công việc gia đình, hay phải chịu tổn phí cưới hỏi.... Thậm chí thiếu mất quyền làm chủ gia đình và quyền lợi về giáo dục.
08/04/2013(Xem: 3533)
Ni sư Houn Jiyu Kennett, người khai sơn và làm Ni trưởng ni viện Shasta ở bang California, Hoa Kỳ, là một trong những nữ tu theo PG đầu tiên ở phương Tây. Trong 30 năm hoằng pháp tại Hoa Kỳ, bà đã đem lại lợi lạc cho người dân ở xứ sở này qua việc thuyết giảng, viết sách báo... Các tác phẩm đáng chú ý nhất của bà là "Con ngỗng trắng hoang dã" (The wild white Goose), xuất bản năm 1977 và tái bản năm 1978 ; và "Dòng sông bán nước" (Selling water by the river) in năm 1972, đến năm 1978, quyển sách này được tái bản với tựa đề mới là "Thiền là đời sống vĩnh hằng" (Zen is Eternal life). Đây là những cuốn sách rất được các thiền sinh phương Tây ưa chuộng. Tuy nhiên, trong thời gian hoằng pháp tại các nước phương Tây, bà đã tự mình tách khỏi các tông phái thiền khác ở Mỹ và cả ở Nhật Bản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]