Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Hai

15/12/201015:23(Xem: 12510)
Lần Chuyển Pháp Luân Thứ Hai

TỔNG QUAN

VỀ NHỮNG CON ĐƯỜNG
CỦA PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Nguyên tác: A Survey Of The Paths Of Tibetan Buddhism
Tác giả: His Holiness Tenzin Gyatso 14th Dalai Lama of Tibet
Chuyển ngữ: Tuệ Uyển – 19/06/2010
Làng Đậu hiệu đính

LầnChuyển Pháp Luân Thứ Hai

Trong lần chuyển pháp luânthứ hai, đức Phật đã dạy về Trí huệ Toàn Thiện hay Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa, trên đỉnh Linh Thứu, ngoại thành VươngXá.

Lần chuyển pháp luân thứ hainên được xem như sự mở rộng trên các chủ đề mà đức Phật đã từng dẫn giải tronglần chuyển pháp luân thứ nhất. Trong lần chuyển thứ hai này, Ngài đã dạy khôngchỉ trên chân lý về khổ đau, rằng đau khổ nên được nhận ra như khổ đau, mà cònnhấn mạnh tầm quan trọng của việc nhận diện cả khổ đau của riêng mình cũng nhưđau khổ của toàn chúng sinh, vì thế nó bao quát hơn rất nhiều. Khi Ngài dạy vềcội nguồn của đau khổ trong lần chuyển pháp luân thứ hai, Ngài cho thấy khôngchỉ đơn thuần những cảm xúc phiền não, mà cả những dấu vết vi tế lưu lại bởichúng, vì thế điều giải thích này là thậm thâm hơn.

Chân lý về diệt độ [Diệt Đế]cũng được giải thích một cách sâu xa hơn nhiều. Trong lần chuyển pháp luân thứ nhất,sự diệt độ chỉ đơn thuần được xác minh, trái lại trong Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đađức Phật giải thích bản tính của sự diệt độ này và các đặc trưng của nó trongnhững chi tiết sâu rộng. Ngài đã diễn tả lộ trình mà trong ấy những khổ đau cóthể chấm dứt và thể trạng được gọi diệt độ hay Diệt Đế là gì.

Tương tự, chân lý về đạopháp được đề cập một cách sâu xa hơn trong KinhBát-nhã Ba-la-mật-đa. Đức Phật đã dạy lộ trình đặc trưng bao hàm sự thực chứngvề tính Không, bản tính của mọi pháp, phối hợp với lòng bi mẫn và tâm thức giácngộ, nguyện ước vị tha để đạt đến giác ngộ vì lợi ích của toàn thể chúng sinh.Do bởi Ngài nói về sự hợp nhất phương tiện và trí huệ trong lần chuyển pháp luân thứ hai, nên chúng ta thấyrằng lần chuyển thứ hai mở rộng và phát triển trên cơ sở lần chuyển pháp luânthứ nhất.

Mặc dù bốn chân lý cao quýđược giải thích một cách thâm sâu hơn trong lần chuyển pháp luân thứ hai, điềunày không phải là bởi vì có các tính năng nào đó được giải thích trong lần thứhai mà không được giải thích trong lần thứ nhất. Đó không phải là lý do, bởi vìnhiều chủ đề được điễn giải trong các hệ thống không Phật giáo vốn không đượcgiải thích trong Đạo Phật, nhưng điều đó không có nghĩa rằng những hệ thốngkhác là thậm thâm hơn Phật giáo. Lần chuyển pháp luân thứ hai giải thích vàphát triển những khía cạnh của bốn chân lý cao quý, mà đã không được diễn giảitrong lần chuyển pháp luân thứ nhất, nhưng điều ấy không mâu thuẩn với cấu trúctổng quát của đạo pháp Phật giáo được diễn tả trong lần diễn giải thứ nhất. Dovậy, sự diễn giải được tìm thấy trong lần thứ hai được nói là thậm thâm hơn.

Tuy thế, trong các luận bàncủa lần chuyển pháp luân thứ hai, chúng ta cũng tìm thấy những trình bày màchúng thật sự mâu thuẩn với cấu trúc chung của đạo pháp như được diễn tả tronglần thứ nhất, vì thế Đại thừa nói về hai loại kinh điển, một số tiếp nhận giátrị bề mặt và tư tưởng đúng như văn tự trình bày [nghĩa đen, liễu nghĩa], tráilại một số khác đòi hỏi sự diễn dịch xa hơn [nghĩa diễn dịch, bất liễu nghĩa].Do vậy, căn cứ trên sự tiếp cận của Đại thừa về bốn sự xác tín [tứ pháp y],chúng ta phân chia kinh điển thành hai phạm trù, liễu nghĩa và bất liễu nghĩa.

Bốn loại xác tín này bao hàmsự hướng dẫn nương tựa trên giáo huấn, không phải trên người [nói pháp] [y phápbất y nhân]; trong các giáo lý, nương tựa trên ý nghĩa, không chỉ đơn thuầntrên ngôn ngữ [y nghĩa bất y ngữ]; dựa vào các kinh điển liễu nghĩa, không phảinhững kinh không liễu nghĩa [y liễu nghĩa bất y bất liễu nghĩa]; và dựa vào sựthấu hiểu sâu xa của trí huệ, không phải trên kiến thức của sự thấy biết thôngthường [ý trí bất y thức].

Sự tiếp cận này có thể tìmthấy trong ngôn từ của chính đức Phật, khi Ngài nói, “Này các vị Tỳ kheo và người thông tuệ, đừng chấp nhận những gì ta nóichỉ vì tôn kính ta, mà điều trước nhất là sự kiểm nghiệm phân tích và nghiêm ngặt.”

Trong lần chuyển pháp luânthứ hai, Kinh Bát-nhã Ba-la-mật-đa , đức Phật đã giải thích xa hơn về chủ đề diệtđộ, đặc biệt với sự quan tâm đến tính Không, trong một phương cách hoàn bị và rộngrãi hơn. Do thế, tiếp cận Đại thừa là để diễn dịch những kinh điển ấy trong haicấp độ: ý nghĩa văn tự, quan tâm đến sự trình bày về tính Không, và ý nghĩa tiềmẩn [mật nghĩa] quan tâm
đến sự giải thích những tầng bậc của đạo pháp.

tongquan-05

Đức Phật Di-lặc

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
09/04/2013(Xem: 9272)
Thời Phật còn tại thế, tại thành Đức Xoa Tỳ La có một mỹ nữ sắc nước hương trời, tên là Liên Hoa Sắc, con một trưởng giả vô cùng sang giàu. Lúc lên 16 tuổi Liên Hoa Sắc lấy chồng. Sau thời gian chung sống với chồng, Liên Hoa Sắc sinh một bé gái, nhưng cảnh đời trớ trêu cha chồng chết sớm, mẹ chồng còn xinh đẹp, sinh lý còn cường thịnh, bà dụ dỗ chồng của Liên Hoa Sắc vào con đường mất hết đạo lý, bà còn đối xử tệ bạc với Liên Hoa Sắc, đúng là mẹ chồng nàng dâu theo thường tình. Bà cấm Liên Hoa Sắc không tiếp xúc nhiều với con bà, và xem Liên Hoa Sắc không khác hầu thiếp của bà.
09/04/2013(Xem: 7419)
Đạo Phật là đạo của bình đẳng. Phật nói " Ta là Phật đã thành, chúng sanh là Phật tử sẽ thành." Bởi thế, theo lời khẩn cầu của tôn giả A Nan, Bà Ma Ha Ba Xà Ba Đề là con thứ ba của A Noa của thích Ca vương, vua thành Thiện Tý, nước Kosala. Bà cũng là em gái của bà Ma Da phu nhân, là di mẩu của Phật Thích Ca. Con của bà là Nan Đà. Tuy nhiên tình thương của bà dành cho Tất Đạt Đa nhiều hơn.
09/04/2013(Xem: 3709)
Cuộc đời và tiểu sử Bà Maha Pajapati Gotami, sự xuất gia của bà và sau đó sự thành lập Giáo Hội Tỳ Khưu Ni (Bhikkhuni) là một trong những mẫu chuyện sáng chói và hấp dẫn nhất trong văn học Phật Giáo. Nó biểu lộ cùng lúc trí tuệ thấy xa và lòng nhân đạo của Đức Phật Đại Từ Đại Bi. Hơn nữa nó cho thấy đến mức nào năng lực hùng mạnh của sự quyết tâm bất khuất, bất thối chuyển và lòng quả cảm của một thiếu phụ có thể gieo ảnh hưởng đến xã hội đương thời.
09/04/2013(Xem: 3845)
Đức Phật Siddhattha Gotama đang ngự trong thành Savatthi (Sravasti, Xá Vệ), Ấn Độ, tại Kỳ Viện Tịnh Xá của Trưởng Giả Anathapindika, Cấp Cô Độc. Vào lúc ấy Đại Đức Ananda, vị đệ tử trung kiên và là thị giả chuyên cần nhất của Đức Bổn Sư cũng ngụ tại ngôi tự viện ấy. Ngày nọ, như thường lệ, Trưởng Lão Ananda y phục chỉnh tề, tay ôm bình bát, chân thong dong đều đặn từng bước, và mắt nhìn xuống, đi vào thành Savatthi.
09/04/2013(Xem: 3773)
Quan niệm về quyền lợi phụ nữ xưa nay vẫn là vấn đề gây nhiều tranh cãi trên bình diện đạo đức xã hội. Sự ra đời cụm từ ‘quyền lợi phụ nữ’ (women’s rights) hàm ý người phụ nữ vốn chịu nhiều thiệt thòi hơn nam giới. Cụm từ này có thể đã dẫn đến sự hình thành nhiều phong trào tích cực trong lịch sử phát triển xã hội.
09/04/2013(Xem: 5252)
Trong bài viết này, dựa vào kinh nghiệm cá nhân, tôi sẽ trình bày khái quát về hiện thực Phật giáo Việt Nam và vai trò của ni giới Việt Nam ngày nay. Phần thứ nhất là giới thiệu về Phật giáo Việt Nam. Hiện nay, Phật giáo Việt Nam có 3 truyền thống lớn: Bắc tông (Mahayàna), Nam tông (Theravada), và Khất sĩ. Tuy hình thức sinh hoạt khác nhau, nhưng cả 3 truyền thống này đều có tăng ni tham gia vào Giáo hội Phật giáo Việt Nam; và vai trò của Ni giới Việt Nam đã được thể hiện cụ thể trên nền tảng của tổ chức Phật giáo duy nhất này.
09/04/2013(Xem: 5172)
Giới thiệu : Bài này được trích từ tuyển tập những bài tham luận đọc tại các Hội Nghị Quốc Tế do Hội Ni Giới Phật Giáo Quốc Tế Sakyadhita tổ chức, nhan đề “ Bước Ra Khỏi Bóng Tối: Ni Giới Dấn Thân vào Xã Hội” (Out of the Shadows: Socially Engaged Buddhist Women), đo Ni Sư Karma Lekse Tsomo xuất bản năm 2006.
08/04/2013(Xem: 7457)
Từ lâu Ni giới có một vị trí thấp trong Xã Hội Campuchia, dường như họ không được thừa nhận và hoàn toàn bị lưu mờ bởi Tăng giới Phật giáo trong xứ sở này. Hầu hết các nữ tu không được học hành và không được tiếp nhận bất cứ một giáo dục Phật học nào. Hình ảnh đoàn thể của họ bị mang tiếng xấu bởi một số cá nhân đi khất thực trái phép.
08/04/2013(Xem: 3769)
Vai trò và vị trí của nữ giới và nam giới trong xã hội thường được ấn định khác nhau trong các vùng văn hóa khác nhau. Vì các lý do chính trị, xã hội hay tôn giáo, từ xưa nam giới thường được đề cao, nữ giới thì giữ một vị trí khiêm tốn hơn, có nơi bị xem nhẹ, như ở các xã hội chủ trương "đa thê", "phụ thê", "nam nhất viết hữu, nữ thập viết vô", phụ nữ ra đường phải che mặt, chỉ đảm nhiệm công việc gia đình, hay phải chịu tổn phí cưới hỏi.... Thậm chí thiếu mất quyền làm chủ gia đình và quyền lợi về giáo dục.
08/04/2013(Xem: 3533)
Ni sư Houn Jiyu Kennett, người khai sơn và làm Ni trưởng ni viện Shasta ở bang California, Hoa Kỳ, là một trong những nữ tu theo PG đầu tiên ở phương Tây. Trong 30 năm hoằng pháp tại Hoa Kỳ, bà đã đem lại lợi lạc cho người dân ở xứ sở này qua việc thuyết giảng, viết sách báo... Các tác phẩm đáng chú ý nhất của bà là "Con ngỗng trắng hoang dã" (The wild white Goose), xuất bản năm 1977 và tái bản năm 1978 ; và "Dòng sông bán nước" (Selling water by the river) in năm 1972, đến năm 1978, quyển sách này được tái bản với tựa đề mới là "Thiền là đời sống vĩnh hằng" (Zen is Eternal life). Đây là những cuốn sách rất được các thiền sinh phương Tây ưa chuộng. Tuy nhiên, trong thời gian hoằng pháp tại các nước phương Tây, bà đã tự mình tách khỏi các tông phái thiền khác ở Mỹ và cả ở Nhật Bản.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]