Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hội Nhập Văn Hóa

09/04/201312:20(Xem: 3062)
Hội Nhập Văn Hóa

tuvienquangduc_1

HỘI NHẬP VĂN HÓA

--- o0o ---

Kính thưa HT Chứng Minh Thích Huyền Tôn
Kính thưa HT Hội Chủ Thích Như Huệ
Kính thưa TT Viện Chủ Tu Viện Quảng Đức Thích Tâm Phương
Kính thưa chư Tôn Đức Tăng Ni
Kính Thưa quý vị Dân Biểu, quý vị đại diện chính quyền Úc, đai diện Cộng Đồng
Kính thưa Đ Đ Thích Nguyên Tạng Trưởng Ban Tổ Chức
Cùng quý vị thiện hửu tri thức Úc, Việt , chư Phật Tử hiện diện hôm nay .

Thưa quý liệt vị,

Hôm nay chúng tôi xin được trình bày về đề tài HỘI NHẬP. Trong phạm vi hạn hẹp của thời gian chúng tôi xin trình bày đơn giản cho phù hợp thế nào là HỘI NHẬP .

Trước tiên xin nói sơ lược về từ HỘI NHẬP . Hội có nghĩa là Gặp. Nhập có nghĩa là vào . Hội Nhập là người mới đến định cư phải tự thích ứng với hoàn cảnh sống trong xã hội mới , như xã hội đa chủng tộc, đa văn hóa của Úc Đại Lợi nầy .

I/

Tất cả chúng ta sống trong xã hội nầy đều là những người HỘI NHẬP. Ví dụ : Khi chúng ta vào một ngôi chùa lễ Phật, vào một siệu thị mua hàng hóa , đến định cư một nơi nào, đến một quốc gia xa lạ để du lịch v.v… , Đó là sự hội nhập . Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh đến sự định cự của người Úc gốc Việt tại xứ Úc nầy . Đó là sự hội nhập.

Người Việt Nam có câu NHẬP GIANG TÙY KHÚC, ĐÁO XỨ TÙY TỤC . Ý nói là khi đi thuyền vào một khúc sông nào thì phải tùy vào tình trạng nước lớn, nuớc ròng, nước xoáy v.v… của khúc sông ấy mà phải chèo cho hợp với khúc sông đó thì thuyền của mình mới tiến lên được . Khi đến một Quốc Gia nào định cư phải tùy vào phong tục tập quán của người xứ ấy mới sinh sống được dễ dàng.

II/

Tiếp theo ý kiến nêu trên, nếu muốn Hội Nhập thành công thì chẳng những phải thích ứng với phong tục tập quán của xứ đó mà người tới sau còn phải Hội Nhập được với những người trong xã hội đó nửa .

Hoặc nói cách khác người định cư trước và người tới sau nên hội nhập với nhau thì mới có sự Hội Nhập hài hòa .

Người đến sau phải Hội Nhập bằng cách học tập NGÔN NGỬ QUỐC GIA, bằng cách học hỏi PHONG TỤC, TẬP QUÁN, VĂN HÓA, LỊCH SỬ, KHOA HỌC KỶ THUẬT, và hội nhập bằng cách học hỏi và tuân theo LUẬT PHÁP của nước Úc nầy .

Nhất là phải cập nhật hóa khả năng chuyên môn của chính mình để thích hợp với cuộc sống chung trong xã hội nầy .

Người đến sau cần tìm hiểu cách ăn mặc, cách sinh hoạt hằng ngày, sinh hoạt tôn giáo, cách suy nghĩ, cách làm việc, v.v… phải tự thích ứng với hoàn cảnh sống mới sao cho mọi cộng đồng khác trong xã hội chấp nhận mình mà không gây rối loạn nếp sinh hoạt của người khác .

Có những trường hợp Hội Nhập không tốt gây trở ngại trong xã hội nên có những hiện tượng tiêu cực xãy ra vì thiếu hiểu biết của cả đôi bên, thiếu sự thông cảm, thiếu tinh thần khoan dung xây dựng lẫn nhau, biến thành những vấn nạn cho xã hội của chúng ta.

III/

Triết gia người Anh Bertrand Russell, người rất thông thạo về triết lý Phật Giáo đã nói như sau : “Nói đến quan điểm Phật Giáo cho rằng : con người ta không thể có hạnh phúc hoàn toàn trong khi còn một chúng sinh đau khổ”. Ông Russell nhấn mạnh rằng : “Tình thương quảng đại trong đó căn bản là đạo đức Phật Giáo chính là động cơ của sức mạnh mà tôi muốn lưu ý với thế giới”.

Điều đó đã nói lên tinh thần “hội nhập như thế nào” của người Phật Tử dưới mắt nhà trí thức Tây Phương nầy .

Trong giáo lý Phật Giáo có dạy người Phật tử cần phải học những môn học như : (1)Tư Duy thể nghiệm để giác ngộ Chân Lý . (2) Học nhiều ngôn ngử ngoài tiếng nói của mình. (3) Học về Y Học, chửa trị bịnh. (4)Học ngành công kỷ nghệ , khoa học, kỷ thuật. (5) Học văn chương, luận lý, triết học, luật học …để phụng sự cho xã hội thăng tiến và an lạc.

Ngoài ra người Phật Tử còn được học các giáo lý khác như : Bi, Trí, Dũng . Giới (Đức Dục), Định (Thể Dục), Huệ (Trí Dục) v.v…để áp dụng vào các lãnh vực trong xã hội hiện tại .

Trên thực tế người Việt Nam định cư tại Úc đã không ngừng tham gia học hỏi và làm việc trong rất nhiều ngành nghề. Sự cần cù , kiên nhẫn và chịu khó không quảng ngại cực nhọc đã giúp họ hội nhập vào xã hội Úc, ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình , góp phần vào sự xây dựng, phát triển cho xã hội.

Càng ngày càng có nhiều gương mặt thành công được nêu gương trong đó có nhiều giới trẻ Úc gốc Việt thành công vượt bực trong các ngành như Y Học, Luật Học, Văn chương, ngôn ngử học, khoa học kỷ thuật v.v…

Như thế người Úc gốc Việt Nam đã thấm nhuần tư tưởng giáo lý Phật Giáo trên hai ngàn năm lịch sử và hôm nay đến đây định cư , có môn học nào mà họ đã học lại không thành công . Có lãnh vực nào mà họ lại không thể cống hiến được cho sự phát triển và an lạc trong xã hội nầy .

Từ những nhận thức, hiểu biết và lòng biết ơn với nước Úc, với người đến trước; người đến sau đã hết sức cố gắng học hỏi làm việc và tích cực xây dựng cuộc sống mới.

Đa số người Úc gốc Việt đã có cuộc sống ổn định về kinh tế . Ngoài những việc làm cơ bản mà xã hội Úc đòi hỏi, họ còn muốn cống hiến nhiều hơn nửa , do đó họ đã có những hoạt động từ thiện xã hội, văn hóa, giáo dục, tôn giáo, v.v… để giúp những người cần được giúp đở không phân biệt nguồn gốc chủng tộc , tôn giáo, ngôn ngử, màu da v.v…

Chúng ta hoan nghênh tinh thần HỘI NHẬP và sự cống hiến cho xã hội mà những người Úc gốc Việt đã đang và sẽ có…

Những điều đó chứng tỏ được sự thành công có ý nghĩa hội nhập của cộng đồng người Úc gốc Việt tại quốc gia nầy .

Tóm lại tất cả đó là sự HỘI NHẬP, HỘI NHẬP và HỘI NHẬP THÀNH CÔNG của cộng đồng người Úc gốc Việt tại Úc Đại Lợi .

Xin chân thành cám ơn chư Tôn Đức Tăng Ni và liệt qúy vị . Kính chúc quý liệt vị trong năm mới thân tâm thưòng an lạc .

Diễn Từ đọc tại Tu Viện Quảng Đức
Melbourne , 9 giờ tối 31-12-2004

Trân trọng

T/S Lâm Như Tạng

Tổng Vụ Phó Tổng Vụ Văn Hóa Giáo Dục GHPGVNTNHN – tại Úc Đại Lợi và Tân Tây Lan



--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11186)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 11437)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14567)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
07/05/2021(Xem: 15907)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12221)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19428)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11351)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 8867)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
18/03/2020(Xem: 4281)
Phần này bàn về cách dùng tiền gián, bẻ tiền bẻ đũa thời LM de Rhodes trong tự điển Việt Bồ La. Đây là tục lệ rất ít tài liệu nào ghi nhận. Tài liệu tham khảo chính của bài viết này là bốn tác phẩm của LM de Rhodes soạn: (a) cuốn Phép Giảng Tám Ngày (viết tắt là PGTN), (b) Bản Báo Cáo vắn tắt về tiếng An Nam hay Đông Kinh (viết tắt là BBC), (c) Lịch Sử Vương Quốc Đàng Ngoài 1627-1646 và (d) từ điển Annam-Lusitan-Latinh (thường gọi là Việt-Bồ-La, viết tắt là VBL) có thể tra từ điển này trên mạng, như trang này chẳng hạn http://books.google.fr/books?id=uGhkAAAAMAAJ&printsec=frontcover#v=onepage&q&f=false .
06/01/2020(Xem: 10553)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567