Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

"Văn hóa Tịnh độ" qua Kinh A Di Đà

30/04/201115:57(Xem: 7935)
"Văn hóa Tịnh độ" qua Kinh A Di Đà
kinh-a-di-da-ttt

Hơn bao giờ hết, hiện nay hai chữ "văn hóa" được ưa chuộng và sử dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như: văn hóa giao tiếp, văn hóa giao thông, văn hóa ứng xử, văn hóa kinh doanh, văn hóa công sở, văn hóa học đường, văn hóa thời trang, văn hóa tín ngưỡng… Ở đây, chúng tôi muốn nói lên một vài suy nghĩ của mình về một khái niệm văn hóa vừa lạ mà vừa quen: "Văn hóa Tịnh độ". Nói lạ là với những người chưa hoặc ít đi chùa, niệm Phật, còn với những người Phật tử thuần thành thì ai ai cũng biết "Tịnh độ" chỉ cho cảnh giới vô cùng thanh tịnh, an lạc và vui sướng, không còn bóng dáng và khái niệm khổ đau của Đức Phật A Di Đà, do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni giới thiệu trong kinh A Di Đà.

"Văn hóa" theo nghĩa rộng, là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn. Ở đây, chúng tôi chỉ tập trung đề cập đến những đặc trưng cơ bản và gần gũi nhất của kiểu "Văn hóa Tịnh độ" được diễn tả qua kinh A Di Đà.

Khái niệm "Văn hóa Tịnh độ" bất chợt xuất hiện trong tâm thức khi chúng tôi trên đường đi bái Phật từ Đài Bắc (Pháp Cổ Sơn của ngài Thánh Nghiêm), đi ngang Đào Viên, Tân Trúc, Miêu Lật đến Đài Trung (Trung Đài thiền tự của ngài Duy Giác), vượt qua Chương Hóa, Vân Lâm, Gia Nghi đến Đài Nam, Cao Hùng (Phật Quang Sơn của ngài Tinh Vân), đi vòng Bình Đông, Đài Đông đến Hoa Liên (Từ Tế hội của Ni sư Chứng Nghiêm), rồi ngang qua Nghi Lan về lại Đài Bắc trong chuyến thăm viếng Đài Loan nhân dịp Vu lan vừa qua. Tức là chúng tôi đã đi giáp một vòng lãnh thổ Đài Loan, viếng thăm bốn tông phái hưng thịnh nhất của Phật giáo Đài Loan hiện nay. Ấn tượng lớn nhất in sâu vào ký ức chúng tôi là trên suốt dọc đường từ thành thị đến nông thôn, chúng tôi luôn nhìn thấy các băng-rôn, bảng hiệu ghi: Nam mô A Di Đà Phật, Nam mô Quan Thế Âm Bồ tát, Nam mô Địa Tạng Vương Bồ tát… treo, dán, in hoặc viết trên cổng nhà, cổng xưởng, cổng công ty, giữa đường hay hai bên đường.

Hơn nữa, chúng tôi thường được nghe pháp âm niệm Phật phát ra từ máy niệm Phật, băng đĩa niệm Phật… Cảnh tượng danh hiệu Phật, Bồ tát phổ biến khắp nơi nơi gợi cho chúng tôi liên tưởng tới một đoạn trong kinh A Di Đà diễn tả về thế giới Cực lạc: "Cõi đó thường có những giống chim màu sắc xinh đẹp lạ thường, nào chim Bạch hạc, Khổng tước, Anh-võ, Xá-lợi, Ca-lăng-tần-già, Cộng mạng. Những loài chim đó ngày đêm sáu thời kêu tiếng hòa nhã, tiếng đó diễn nói những pháp như Ngũ căn, Ngũ lực, Thất bồ đề phần, Bát thánh đạo phần v.v… Chúng sanh trong cõi đó nghe tiếng chim xong thảy đều niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng"(Kinh A Di Đà, HT.Thích Trí Tịnh dịch). Ở cõi Cực lạc, nhiều loại chim quý, dùng tiếng vi diệu diễn nói Phật pháp, để cho dân chúng cõi đó nghe mà luôn luôn tinh tấn tu hành. Không những các loài chim quý, mà cả gió, cây muôn vật cũng biết xiển dương Tam bảo: "Trong cõi nước của Đức Phật đó, gió nhẹ thổi động các hàng cây báu và động mành lưới báu, làm vang ra tiếng vi diệu, thí như trăm nghìn thứ nhạc đồng một lúc hòa chung. Người nào nghe tiếng đó tự nhiên đều sanh lòng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng"(Sđd). Còn ở Đài Loan trong thế kỷ XXI, thì danh hiệu Phật, Bồ tát được diễn nói bằng những hình thức hiện đại hơn.

"Văn hóa Tịnh độ" được thiết lập theo các quy chuẩn, giá trị vật chất và tinh thần nhất định. Thứ nhất, đây là cảnh giới không có khổ đau, chỉ có hạnh phúc, sung sướng. Bởi vì nơi đây không có ba đường ác (địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh), ngay cả danh từ "ác" còn không có, huống chi là có thật. Điều này thể hiện ngay trên danh xưng "Thế giới Cực lạc" (nghĩa là thế giới vô cùng an lạc, vui sướng).

Thứ hai, dân chúng trong nước này đều là chư thượng thiện nhân (những bậc thượng thiện). Tuổi thọ của người dân ở đây lâu dài khó có thể tính được. Điều kiện để "nhập quốc tịch" vào nước Cực lạc thật không đơn giản: "Không thể dùng chút ít phước đức nhân duyên mà được sinh về cõi đó" (Sđd). Muốn sinh về cõi Cực lạc thì nhất định phải đạt đến cảnh giới tâm không tạp loạn: "Nếu có thiện nam tử, thiện nữ nhân nào nghe nói Đức Phật A Di Đà, rồi chấp trì danh hiệu của Đức Phật đó, hoặc trong một ngày, hoặc hai ngày, hoặc ba ngày, hoặc bốn ngày, hoặc năm ngày, hoặc sáu ngày, hoặc bảy ngày, một lòng không tạp loạn. Thời người đó đến lúc lâm chung Đức Phật A Di Đà cùng hàng Thánh chúng hiện thân ở trước người đó. Người đó lúc chết tâm thần không điên đảo, liền được vãng sanh về cõi nước Cực lạc của Đức Phật A Di Đà" (Sđd). Tóm lại, đạo đức và trí tuệ của người dân ở đây đạt tầm mức rất cao, họ sống vui, sống lâu, sống khỏe và không có bịnh tật.

Thứ ba, điều kiện, hoàn cảnh và môi trường sống ở đây từ nhà cửa, phố xá, cơ sở hạ tầng đến phương tiện sinh hoạt tinh thần thật tuyệt vời. Quan trọng là tất cả đều nhằm hướng cho dân chúng thăng tiến trí tuệ và tâm linh, chứ không phải cốt hưởng thú vui dục lạc:"Cõi Cực lạc có bảy từng bao lơn, bảy từng mành lưới, bảy từng hàng cây, đều bằng bốn chất báu bao bọc giáp vòng…, lại có ao bằng bảy châu báu, trong ao đầy nước tám công đức, đáy thuần dùng cát vàng trải làm đất. Vàng bạc, lưu ly, pha lê hiệp thành những thềm, đường ở bốn bên ao; trên thềm đường có lầu gác cũng đều nghiêm sức bằng vàng, bạc, lưu ly, pha lê, xa cừ, xích châu, mã não. Trong ao có hoa sen lớn như bánh xe: hoa sắc xanh thời ánh sáng xanh, sắc vàng thời ánh sáng vàng, sắc đỏ thời ánh sáng đỏ, sắc trắng thời ánh sáng trắng, mầu nhiệm thơm tho trong sạch"(Sđd).

Một trong những nét sinh hoạt hàng ngày của người dân là: "Cõi nước của Đức Phật đó, thường trổi nhạc trời, đất bằng vàng ròng, ngày đêm sáo trời, rưới hoa trời mạn-đà-la. Chúng sanh trong cõi đó thường vào lúc sáng sớm, đều lấy đãi hoa đựng những hoa tốt đem cúng dường mười muôn ức Đức Phật ở phương khác, đến giờ ăn liền trở về bổn quốc ăn cơm xong đi kinh hành" (Sđd).

Nước Cực lạc, vật chất sung mãn, môi trường sinh thái trong lành và thanh khiết, đời sống tâm linh hướng thượng lý tưởng và thánh thiện, môi trường không ồn ào, hoàn cảnh không độc hại, không khí không ô nhiễm, con người không còn tạo ác nghiệp.

Thiết lập "Nhân gian Tịnh độ" ngay trong đời sống hiện tại là một trong những nội dung cốt yếu của hành giả tu pháp môn Tịnh độ hướng tới. Những khía cạnh cơ bản về giá trị vật chất và tinh thần của "văn hóa Tịnh độ" qua kinh A Di Đàđược trình bày ở trên, thể hiện rõ đây là nét văn hóa Chân, Thiện, Mỹ mang giá trị vĩnh hằng đối với nhân loại trong hiện tại cũng như tương lai.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
20/09/2010(Xem: 6841)
Nghi lễ biểu hiện lòng thành kính đối với Tam Bảo: Tín đồ luôn có một niềm tin sâu sắc và thành kính đối với Tam Bảo. Niềm tin đó tạo sự chuyển hóa trong nội tâm...
17/09/2010(Xem: 3904)
Về tên gọi Chùa hầu như đều thống nhất từ trước tới nay và ai cũng hiểu rõ đó là một tập hợp kiến trúc nhà làm nơi thờ Phật. Đó là tài sản chung của một cụm người cư trú...
10/09/2010(Xem: 50793)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
03/09/2010(Xem: 5247)
Ở Tây Tạng, núi non thường được xem như nơi cư ngụ của những bổn tôn. Thí dụ, Amnye Machen, một ngọn núi ở Đông Bắc Tây Tạng, được coi như trú xứ của Machen Pomra, một trong những bổn tôn quan trọng nhất của Amdo, tỉnh nhà của chúng tôi. Bởi vì tất cả những người ở Amdo xem Machen Pomra là người bạn đặc biệt của họ, nhiều đoàn người đi vòng quanh chân núi trong cuộc hành hương.
28/08/2010(Xem: 52313)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6651)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 51669)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
28/08/2010(Xem: 9281)
Viết về Thế Tôn, các nhà nghiên cứu Phật học thường đề cập đến Ngài như một đấng Giáo chủ đã tìm ra con đường giải thoát và chỉ rõ con đường ấy cho nhân loại, hoặc đề cập đến Ngài như một nhà đại tư tưởng, một nhà cách mạng xã hội, v.v... Nhưng có rất hiếm những luận văn, công trình đề cập đến Ngài như một nhà giáo dục tư tưởng, và giáo lý của Ngài như là một hệ thống tư tưởng giáo dục toàn diện và tiên tiến.
27/08/2010(Xem: 20812)
Còn nghĩ rằng “Đời là thế, vốn dĩ đời là thế”, “giữa cuộc đời cũng chỉ thế mà thôi”. Trước hiên nhà, lá rụng đầy sân, Chớm lộc mới, ngát hương đường cũ. Vậy nên: Hương xưa còn đọng trên đường, Ngàn lau lách ấy xem dường trinh nguyên. Âm ba tiếng hát đỗ quyên, Lung linh trăng nước xe duyên sơn hà.
22/07/2010(Xem: 12137)
Tôi phải thú nhận rằng hình như có điều gì không ổn khi một người suốt đời sống trong thế tục như tôi lại viết lời giới thiệu cho một quyển sách về giáo lý của Đức Phật về sự thành đạt, trí tuệ và bình an nội tâm. Quan điểm của tôi về tôn giáo đã bị chỉ trích nhiều, vì tôi tin rằng hầu hết các tôn giáo đều là một hình thức tâm bị nhiễm vi-rút (virus) làm lây nhiễm chúng sanh bình thường mạnh khỏe –và thường là có tri thức. Chỉ có Phật giáo dường như tách biệt với các tôn giáo khác vì tính chất cởi mở, uyển chuyển và thực dụng. Do đã sống hơn nữa thể kỷ ở Sri Lanka, tôi đã nhìn thấy giáo lý của Đức Phật đã được áp dụng như thế nào bởi nhiều thành phần xã hội, bằng nhiều phương cách khác nhau. Dầu nghe có vẻ lạ, nhưng những người hoàn toàn có lý trí và những kẻ bảo thủ một cách điên cuống đều cho rằng niềm tin và thái độ củ
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567