Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thấy Gì Qua Một Hình Ảnh?

13/03/201303:00(Xem: 3071)
Thấy Gì Qua Một Hình Ảnh?
Thấy Gì Qua Một Hình Ảnh?
Thích Thanh Thắng

thumbnail.php?file=316874_264699110333595_916905681_n_267212332Thế là Tổng thống Venezuela, Hugo Chavez cũng đã “thuận thế vô thường” ở tuổi 58. Truyền thông trong nước đưa tin và ca ngợi ông như vị “Tổng thống của dân nghèo”, nhưng với một đất nước phát triển và có ảnh hưởng lớn ở châu Mỹ như Venezuela, thì cần phải nói ông là Tổng thống của một đất nước hùng mạnh, dĩ nhiên là của đa số dân giàu, vì dân giàu thì nước mới mạnh, và ngược lại.

Tại sao người ta cứ phải nhắc đến cái nghèo khổ (bần cố nông) như một “giá trị”, “di sản” đáng tội nghiệp, nhằm phản ánh “chân lý”, “đạo đức xã hội” của lãnh tụ, trong khi những lời hô hào phải thoát nghèo, phải chống tham nhũng vẫn tỏ ra ít hiệu lực trước thực tế cuộc sống?

Quyền lực dẫu vô biên vẫn không bằng nghiệp lực, điều đó cho thấy vai trò (sinh tử) của cá nhân ảnh hưởng như thế nào đến chính sách và vận mệnh của một quốc gia. Dù ông Hugo Chavez đã lãnh đạo một nhà nước “tự nhận” là theo Xã hội chủ nghĩa, mà không theo Chủ nghĩa Mác - Lê Nin, nhưng vẫn nhận được quan tâm đáng kể từ giới lãnh đạo Việt Nam. Tuy nhiên, cần phải phân biệt giữa quốc gia Cộng sản, nhà nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo, và một số nước tự nhận là theo Xã hội Chủ nghĩa.

Khoảng cách "triết học" giữa Việt Nam và Venezuela là khoảng cách của một nước Cộng sản (Chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh) và một nước chỉ tự nhận là theo “Xã hội chủ nghĩa” (không Mác - Lê Nin). Có lẽ Venezuela thân thiết với Cu ba (một nước Cộng sản) ở khoảng cách địa lý và những vấn đề chung của khu vực Châu Mỹ, hơn là thân thiết về mặt “triết học Cộng sản”.

Chính vì thế, một hình ảnh dễ nói trong đám tang của ông Hugo Chavez là hình ảnh cây thánh giá và Đức Chúa Giê-Su phía sau quan tài. Không có một nước Xã hội chủ nghĩa (“thuần chủng”) nào mà đám tang lãnh tụ có hình ảnh ấy, bởi biểu tượng tôn giáo vẫn là một điểm “nhạy cảm”, thậm chí đối lập với tư tưởng vô thần.

Nói như vậy để thấy, vai trò của nhà nước và tôn giáo trong một quốc gia. Khi mối quan hệ này không chính danh, không đàng hoàng, không gắn bó, thì tình trạng bằng mặt mà không bằng lòng vẫn xảy ra, và niềm tin giữa họ không bao giờ được củng cố. Triết học Mác - Lê Nin đã cho ra một định nghĩa về tôn giáo gây nên nhiều phản ứng, rằng nó như một thứ thuốc phiện ru ngủ quần chúng nhân dân. Đó là điểm không tương đồng khi định nghĩa này được kéo từ xã hội phương Tây về xã hội phương Đông, và được “ứng dụng” một cách máy móc.

Có “ru ngủ” hay không khi Tổng thống Mỹ Obama nhậm chức vẫn đặt tay lên quyển kinh Thánh để tuyên thệ, trong khi ông ta vẫn có thể cho biết rằng mình vẫn thường xuyên ngồi thiền, hay thỉnh thoảng đọc sách Phật. Rất nhiều người Mỹ không theo Ki-tô giáo, hay theo các tôn giáo khác nhau chẳng mấy khó chịu vì điều đó, bởi họ thừa biết nó chỉ mang tính biểu tượng.

Nhưng đó cũng phần nào cho thấy một quốc gia mà thế quyền và giáo quyền được kết hợp một cách tự nhiên, hài hòa, bên cạnh những bộ luật tôn trọng đầy đủ quyền tự do theo hay không theo tôn giáo của bất kỳ ai, dù là tổng thống hay thứ dân, dù có đảng hay không có đảng.

Ở Việt Nam, nếu lãnh đạo nào mới chỉ thân thiết thôi, chứ chưa nói đến việc quy y hay chịu phép rửa tội, thì đã bị những người có tôn giáo xem là có thể họ sẽ “ưu ái”, “thiên vị” cho tôn giáo mà họ thân thiết. Điều này cho thấy, cái “di sản” ngạo ngược, bất bình đẳng tôn giáo ở cái thời Diệm - Nhu đã chưa thể hàn gắn được cho thực tại tôn giáo ngày hôm nay, cụ thể giữa Ki-tô giáo và Phật giáo. Cũng xin nói thêm về bản nhận định và góp ý của Hội đồng Giám mục Việt Nam về cái “quyền tự do tôn giáo”, bởi nghe thì khá kêu, nhưng vì sao “bên ấy” vẫn ra sức cải đạo (có khi như giành giật) những người ngoài Ki-tô, và tại sao phải dùng hôn nhân để thúc ép người ngoài Ki-tô phải đi học đạo… Hoá ra những cái “độc” như “độc quyền” và “độc thần” cũng có những điểm gần gũi, chỉ là “quyền lực” thế tục chưa rơi vào tay họ điều khiển mà thôi.

Một điểm khác nữa, nói đến lòng yêu nước và chủ nghĩa dân tộc, thì từ quá khứ lịch sử đến hiện tại, dù nói gì thì những người Ki-tô giáo vẫn khó thông được, nhất là khi vẫn lệ thuộc vào quốc gia Vatican. Chả lẽ quốc gia tôn giáo thì không phải quốc gia và được ngoại lệ trên mảnh đất Việt Nam ư? Đây là điểm mà hầu hết giới Phật giáo, từng “thừa hưởng” những di sản tồi tàn mà Ki-tô để lại cho họ (không một lời thống hối), tỏ ra không mấy tin tưởng ở bất cứ ngọn cờ nào mà Ki-tô khởi xướng, các giới khác cũng nên nhìn ra điều này.

Và có lẽ với họ, sự lãnh đạo của người Cộng sản hiện nay vẫn “an toàn” hơn rất nhiều so với những thế lực khác mà “Ki-tô” đang muốn giật dây hay lợi dụng. Đó là chưa kể đến phương châm của Giáo hội PGVN là “Đạo pháp - Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội”, cần phải phân biệt giữa “Chủ nghĩa xã hội” và “Xã hội chủ nghĩa”, và yếu tố không Mác - Lê Nin trong đó, để không suy diễn tuỳ tiện về Phật giáo. Như Đức Đạt Lai Lạt Ma tự nhận mình một nửa là Phật giáo và một nữa là Cộng sản (trên tinh thần và cả giá trị của từ này).

Tuy Hiến pháp Việt Nam cũng có quy định về quyền tự do tôn giáo, nhưng không dễ dàng để người ta nhận mình có tôn giáo khi tham gia vào bộ máy công quyền, nhất là những người có thẻ Đảng. Điểm bất thường này, lâu dần đã trở thành những ứng xử kiểu “kỵ huý”, nên lãnh đạo mà đi lễ chùa, thờ Phật, quy y, học đạo, nghe kinh sẽ trở thành tâm điểm “soi mói” của truyền thông và đồng nghiệp. Đây cũng là điểm mà khi tấn công vào chế độ này, người ta phải song song tấn công vào Phật giáo, vì dẫu gì Phật giáo vẫn được xem như tôn giáo chính của dân tộc, gắn bó mật thiết với chế độ. Nhưng đây cũng là điểm gây ra sự thiếu tự tin và mâu thuẫn của giới lãnh đạo mỗi khi phải chia tách giữa cái chất vô thần và tình cảm, niềm tin tôn giáo của mình, trước thực tế phải nhanh chóng thừa nhận “tính chất lâu dài” của tôn giáo trong mọi xã hội, mọi thể chế.

Những người đối lập với nhà nước nhìn vào xu hướng xã hội trên mà phân ra làm “linh mục quốc doanh”, “sư quốc doanh” nhằm chỉ những người gắn bó mật thiết với nhà nước, và những linh mục, nhà sư ngoài quốc doanh, thường là những người bất đồng với nhà nước. Trong khi chuyện một chức sắc tôn giáo “gắn” với nhà nước hay không “gắn” với nhà nước thì quốc gia nào cũng có và họ xem đó là điều hết sức bình thường, ở cái quyền mà họ được luật pháp cho phép.

Lãnh đạo nào theo đạo Phật, ủng hộ Phật giáo phát triển thì cứ nói là mình theo Phật, theo Ki-tô, ủng hộ Ki-tô phát triển thì cứ nói là mình theo Ki-tô. Chả có Phật tử Mỹ nào bắt bẻ chuyện ông Obama đặt tay vào kinh Thánh trong lễ nhậm chức, hay quyên tiền để xây một ngôi nhà thờ. Vấn đề là, có tôn giáo hay không, đều phải tuân thủ quy định của pháp luật, và vấn đề là khi chết có được Chúa hay Phật, hay Mác - Lê “rước đi” hay không…

Thích Thanh Thắng
(TTVHPG Liễu Quán)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/01/2023(Xem: 5351)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13693)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18307)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13855)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12266)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6455)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8661)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7680)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31374)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
14/11/2021(Xem: 16532)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567