Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ông Matthieu Ricard viết về lòng vị tha

16/06/201418:52(Xem: 7597)
Ông Matthieu Ricard viết về lòng vị tha

Matthieu Ricard
ÔNG MATTHIEU RICARD
VIẾT VỀ LÒNG VỊ THA.
Vi Tâm

sanh trưởng trong một gia đình trí thức thượng lưu bên Pháp. Năm 20 tuổi, ông bỏ nhà sang Ấn Độ tu học Phật pháp dưới sự hướng dẫn của các thiền sư Tây Tạng, trong đó có Kangyur Rimpotché, sau này là sư phụ của ông. Đồng thời ông bắt đầu một luận án tiến sỹ về di tính tế bào. Về Pháp tiếp tục trong phòng thí nghiệm của François Jabob, ông trình luận án năm 1972. Sau đó, ông trở lại Ấn Độ theo học Phật pháp, tu hành, viết sách và tham gia xây dựng rất nhiều công trình từ thiện cho tới bây giờ. Nhờ sống bên Ấn Độ, ông rất thạo tiếng Tây Tạng và gần đây hay theo Đức Đạt Lai Lạt Ma dịch các diễn văn của Ngài sang tiếng Pháp.

Matthieu Ricard vừa cho in một cuốn sách dày cộp, trên 900 trang, với tựa đề là « Plaidoyer pour l'altruisme »*. Altruisme là lòng vị tha. Plaidoyer là bênh vực, biện hộ. Đọc cái chủ đề đã giật mình. Vậy là, theo ông Ricard, lòng vị tha đã bị nghi ngờ, tố cáo, đè bẹp hay buộc tội ? Hơn nữa, đã bị nặng nề đến nỗi ông phải viết một quyển sách dài trên 900 trang để biện hộ cho !


1. Bẩy điều bàn về lòng vị tha. Bắt đầu quyển sách, với phong cách của một nhà khảo cứu, Matthieu Ricard đã tìm định nghĩa cho chủ đề, nghĩa là cho chữ altruisme. Ông đã mất công sưu tầm rất nhiều tài liệu của các nhà triết học, tâm lý học, khảo cứu gia, …, viết về chữ altruisme (đây là những tài liệu bằng tiếng Pháp, Anh, Đức, không có tài liệu tiếng Hán hay Việt). Lòng vị tha là « lòng lo điều tốt cho người khác mà không vụ lợi ». Biết vậy, nhưng altruisme không thể ngưng ở chũ « lòng ».
Đọc rất nhiều phân tích, tôi xin chọn 7 điều đã được bàn luận :

1. Người có lòng vị tha nghĩ đến người khác, nhưng cũng phải làm gì cho người khác. Chỉ nghĩ đến người khác mà không làm gì thì không thể kể là có lòng vị tha.

2. Làm một cái gì gây hạnh phúc cho người khác phải do thiện ý. Nếu chỉ làm mà không vì thiện ý thì không thể cho là một hành động vị tha.

3. Người có hành động vị tha phải trả một giá gì. Làm một việc tốt cho người khác mà không tốn kém khó nhọc, tiền của, thời gian gì cả, thì không nên kể là một hành động vị tha.

4. Vị tha không thể vì tư lợi, hay vì muốn người nhận trả ơn, mong một ngày có người khác trả ơn, hay muốn được tiếng, vân vân.

5. Người có lòng vị tha trước nhất phải biết nghe, học để hiểu sự mong muốn của người khác, và hành động cho đúng. Nếu chỉ hành động theo ý riêng của mình, có khi có ý tốt mà làm người khác buồn hay khổ đau.

6. Người có lòng vị tha không được phân biệt người này người kia khi làm điều tốt. Không được phân biệt màu da, chủng tộc, xứ sở, tín ngưỡng,…của người nhận.
7. Vị tha phải là một « trạng thái lâu dài ». Nếu chỉ làm một việc gì trong tức thời cho người khác, thì không thể nói là có lòng vị tha !

Và đây là nhận xét về đạo Phật :

8. Khác với nhiều đạo khác, đạo Phật mở rộng lòng vị tha không phải chỉ riêng cho người mà cho tất cả các sinh vật.

Quyển sách đưa ra nhiều khía cạnh khác để nhận định lòng vị tha, nhưng tôi thấy 7 điều trên, cộng với nhận xét thứ 8, đã đủ cho mình nhiều học hỏi và suy nghĩ. Dĩ nhiên các bạn có thể đồng ý hay không đồng ý, hoặc muốn viết một cách dung hòa hơn hay khắt khe hơn, về một hay nhiều điểm trên. Các bạn để ý tôi không viết là bẩy « điều kiện phải có » phải có mà chỉ viết là 7 điều đã được bàn thôi.

2. Lòng vị tha bẩm sanh và lòng vị tha « mở rộng ». Đức Đạt Lai Lạt Ma phân biệt hai lòng vị tha. Một là do bẩm sinh. Đó là thể hiện của tình cha mẹ với con cái, tình anh em họ hàng. Đó là lòng vị tha khi mình muốn giúp đỡ điều gì khi thấy người già cả ốm yếu hay thấy đứa trẻ thơ bị bỏ rơi. Trong những trường hợp này lòng vị tha rất tự nhiên, nhưng có giới hạn về đối tượng. Lòng vị tha thứ hai là do mình đạt được trong cuộc sống. Nó đòi hỏi một trình độ hiểu biết và suy luận. Lòng vị tha này mở ra ngoài vòng của những người thân, vượt khỏi sự phân biệt của màu da, quốc gia, chủng tộc, tôn giáo, có khi bao gồm cả những kẻ thù nghịch. Đó là lòng vị tha mở rộng.
Rất nhiều người đủ mọi ngành nghề đã đứng ra kêu gọi : « Chúng ta phải luôn luôn học và hành để bồi bổ khuyên khích lòng vị tha bẩm sanh để biến nó thành lòng vị tha mở rộng ». Chắc các bạn đều đồng ý !

3. Nhắc nhở một câu của ông Einstein. Matthieu Ricard chép lại câu này của A Einstein :

« Con người là thành phần của một tổng thể ta gọi là vũ trụ, một thành phần rất giới hạn trong không gian và thời gian của tổng thể. Ta đã thực nghiệm đời mình với những suy nghĩ tình cảm riêng tư, tưởng như không nằm trong tổng thể. Nhưng đó là một ảo tưởng. Cái ảo tưởng ngăn chặn tình cảm của chúng ta trong phạm vi một số người thân. Chúng ta phải vượt khỏi cái ngục tù đó để mở rộng lòng vị tha cho tất cả mọi sinh vật và tất cả thiên nhiên trong cái đẹp của nó »

Qua câu ông Einstein viết, mình có cảm tưởng ông đã đọc rất nhiều về đạo Phật.

4. Chuyện ông Sanjit Bunker Roy. Trong phần này của quyển sách, M Ricard có kể một thí dụ về lòng vị tha : chuyện của Sanjit Bunker Roy, người mà M Ricard đã quen và làm việc chung.
Bunker sanh ra trong một gia đình thượng lưu trí thức bên Ấn Độ. Anh được vào học trong một trường trung học rất nổi tiếng. Cha mẹ anh hy vọng đứa con sẽ là một bác sỹ, một kỹ sư, hay một nhân viên đầy hứa hẹn trong Nhà Ngân Hàng Quốc Tế. Nhưng năm đó, 1965, một nạn đói kinh khủng đã xẩy ra ở tỉnh Bihar, một tỉnh nghèo nàn nhất bên Ấn Độ. Bunker và bạn bè noi gương Jai Prakash Narayan, một người bạn đồng hành của Gandhi, quyết định đến tận nơi để xem cho rõ tình hình. Những điều thấy tận mắt làm anh rất súc động. Vài tuần sau, anh về nhà tuyên bố với bố mẹ là anh sẽ đến sống và làm việc tại một làng trong vùng nghèo khổ đó. Anh muốn đến để « đào giếng, như một người thợ không chuyên môn ! ».
Cha mẹ anh kinh ngạc sững sờ, nhưng tin đó chỉ là cơn bốc đồng vì lý tưởng của tuổi trẻ : chỉ cần chờ ít lâu là anh sẽ thất vọng và sẽ trở về.
Nhưng Bunker không trở về ! Anh đã ở lại với làng đó. Và ở lại trong 40 năm !

Trong sáu năm đầu, anh cần cù dùng búa điện đào giếng và đào được 300 cái giếng cho vùng Rajasthan. Một công việc cực kỳ nặng nhọc.
Sau đó anh nghĩ mình phải làm cái gì lợi ích hơn là đào giếng. Anh nhận thấy những người đàn ông ở đó ai được đi học tấn tới đều bỏ làng đi làm tại các tỉnh lớn chứ không hề trở về giúp làng của họ. Ngược lại, những người đàn bà, nhất là các bà đã có cháu (tuổi mới chừng 35-50), còn khỏe mạnh, có nhiều thì giờ rảnh rang, lại cứ tiếp tục sống loanh quanh trong làng. Họ phần lớn là những người không được đi học ! Sau nhiều suy nghĩ, anh tìm ra được một nghề mà những người đó, tuy không có chữ nghĩa, cũng có thể làm được : đó là nghề làm những cái bảng lấy ánh sáng mặt trời để tạo ra điện. Thế là anh nghiên cứu và dạy họ làm nghề đó. Sau một giai đoạn vô cùng khó khăn, các bà-đã-có-cháu đó đã tạo được điện từ mặt trời đủ dùng cho hơn một ngàn làng bên Ấn Độ và các nước láng giềng. Việc họ làm được báo chí ca ngợi. Chính phủ Ấn đã công nhận công trình của họ và trợ giúp.


Ngoài chuyện đó, Bunker đã nghiên cứu và giúp dân làng khai thác những kinh nghiệm từ ông cha để lại, nghĩ ra một cách hứng nước mưa vào những thùng thật lớn để dùng cho cả năm. Các bà mẹ không phải đi bộ cả chục cây số để đội nước lấy từ lòng đất, có khi rất dơ bẩn, về làng nữa. Anh tổ chức các buổi học công cộng dùng hình nộm để dạy nghề cho mọi người : những hình nộm đó được tạo ra bằng các tập giấy cũ của Nhà Ngân Hàng Thế Giới ! Vậy anh đã đến với nhà băng này qua một con đường khác, không như cha mẹ đã ao ước cho anh!

Các cố gắng và thành công của anh làm anh trở nên một con người luôn luôn vui vẻ, nhìn mặt là thấy rất hạnh phúc. Dĩ nhiên anh đã trở về nhà làm hòa với gia đình. Và cha mẹ anh rất hãnh diện về đứa con.

Câu chuyện trên là một trường hợp đặc biệt và rất hiếm hoi. Nếu bạn kiểm điểm thì thấy mọi đặc tính, 1-7, của lòng vị tha đã được thể hiện trong thí dụ này. Quả thật anh Bunker đã « làm » việc tốt cho người khác. Thiện ý của anh đã rõ ràng từ bước đầu. Ở đây, giúp người khác, anh đã trả một giá rất đắt : tuổi trẻ và cuộc đời anh. Các việc làm của anh kéo dài 40 năm trời. Anh không hề muốn được trả ơn lại, vì những người nghèo bên Ấn Độ có gì mà trả anh được. Anh rất công phu tìm hiểu cảnh sống của họ và anh có đủ hiểu biết thông minh để học và dạy họ dựng các tấm bảng làm ra điện từ ánh sáng mặt trời và nhiều việc khác. Anh giúp người nghèo xứ Ấn và người nghèo các xứ chung quanh, không hề phân biệt thân phận của những người đã nhận sự giúp đỡ của anh.

5. Đánh giá và bồi dưỡng lòng vị tha. Chắc các bạn cũng như tôi đã thấy rất nhiều tấm lòng vị tha trong xã hội quanh mình. Có thể phần lớn đó chỉ là những chuyện nhỏ, không thể so sánh với một đời vị tha của ông Bunker, nhưng cũng rất đáng kính trọng.
Bảng các điều 1-8 ở trên giúp cho mình nhận xét và tu tập. Nhìn công việc của người khác mình có thể âm thầm đánh giá. Khi đó mình phải rộng lượng và khuyến khích. Chuyện họ làm có « đủ tư cách để được coi là lòng vị tha hay không » không phải là vấn đề chính. Vấn đề chính là có thiện ý và làm điều tốt cho người khác. Còn khi xét về việc chính mình làm thì những điều 1-8 kể trên cho mình thấy việc mình làm đã đi đến đâu, còn thiếu khía cạnh gì, để học chữ khiêm tốn, và cố gắng thêm.

Tôi đã được chứng kiến rất nhiều tấm lòng vị tha. Nhưng xin cố ý kể một chuyện rất nhỏ. Chuyện xưa rồi. Hồi đó, tôi có một người bạn di cư sang đây sau 75, tìm được việc làm « khuân vác » trong một nhà thương. Buổi chiều đi chơi với nhau, tôi thấy anh có một cái túi nhỏ, dành để một số đồng một quan. Gặp người nghèo, anh cho họ một đồng. Anh nói : « Tao mới khám phá ra là buổi tối họ muốn vào trong các nhà trú dành cho người nghèo. Muốn vào đó, họ phải trả một đồng. Nhà trú đòi như vậy cốt ý là muốn giữ thể diện cho người nghèo. Khi họ phải dành một đồng để trả bữa cơm tối và được ngủ một đêm, họ tự đến một cách thư thản, coi là đã trả tiền chứ không ăn xin. Vì thế nhiều người đến hơn, và những người đến hành sự tử tế hơn, ăn ở sạch sẽ hơn ». Các bạn thấy nhà trú này đã nghiên cứu tâm lý những người nghèo và tìm cách tôn trọng họ (đó là điểm 5 đã nói ở trên)
Qua nhiều năm anh bạn tôi vẫn … tiếp tục nghèo và vẫn… tiếp tục sống vất vả. Nhưng anh vẫn vui vẻ… tiếp tục chăm chú làm những việc nhỏ bé như vậy. Anh thật là một người có lòng vị tha.
Lòng vị tha không bắt buộc phải làm những chuyện to lớn. Cần nhất là có một tấm lòng.

Vi Tâm.

TÀI LIỆU THAM KHẢO.
*Matthieu Ricard : Plaidoyer pour l'altruisme. NIL. 2013.

(M Ricard đã bỏ ra 5 năm dày công viết quyển sách này. Quyển sách dày trên 900 trang, với một số tài liệu khổng lồ để đọc thêm. Riêng phần danh sách các tài liệu ông thu thập đã dày 146 trang, trong đó 36 trang là danh sách các quyển sách ông đã đọc. Tôi mới đọc đoạn đầu. Sẽ đọc và xin viết tiếp)

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/03/2023(Xem: 6421)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 5657)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6338)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5357)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13725)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18328)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13881)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12278)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6471)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8668)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567