Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đôi điều về vai trò của người cư sĩ.

09/04/201313:30(Xem: 5218)
Đôi điều về vai trò của người cư sĩ.

cu-si-tai-giaĐôi điều về vai trò của người cư sĩ

Minh Chi

(Học viện Phật giáo Việt Nam)

Cư sĩ là ngoại hộ thiện tri thức, cho nên nếu cư sĩ có một nhận định đúng đắn về vai trò của mình, tu học và sống theo đúng vai trò đó thì chắc chắn Giáo hội PG sẽ có một bước tiến bộ vượt bậc.

1. Từ cư sĩ xuất hiện đầu tiên ở kinh nào?

Theo Hòa thượng Thánh Nghiêm, tác giả cuốn Phật giáo chánh tínthì từ cư sĩ xuất hiện lần đầu tiên trong kinh Duy Ma Cật. Trong kinh, ngài Duy Ma Cật được gọi bằng ba danh hiệu: một là Trưởng giả trong phẩm "Phương tiện", hai là Thượng nhânhay Đại sĩtrong phẩm "Văn Thù thăm bệnh", ba là Cư sĩ trong phẩm "Bồ tát".

Theo các ngài Cưu Ma La Thập, Huyền Trang, Trí Khải thì ngài Duy Ma Cật nguyên là một vị Bổ xứ Bồ tát (vị Bồ tát sắp chứng quả Phật) trên cõi Phật A Thiềm ở phương Đông. Để hỗ trợ cho sự nghiệp giáo hóa của Phật Thích Ca ở cõi Ta bà, ngài Duy Ma đã thị hiện thành một vị tại gia mà trình độ giác ngộ, giải thoát của ngài khiến cho một vị Bồ tát trí tuệ hàng đầu như Bồ tát Văn Thù cũng phải kiêng nể. Như vậy trong kinh Duy Ma, từ cư sĩđồng nghĩa với từ đại Bồ tát.

Từ cư sĩ trong các kinh A hàm:

Trong kinh Trường A Hàmcó từ cư sĩ báu,chỉ cho vị quan đại thần trông coi kho vàng bạc của vua Chuyển luân vương. Rõ ràng từ cư sĩ ở đây chỉ cho nhà quản lý được vua trọng dụng. Ở Ấn Độ ngày xưa đẳng cấp thứ ba sau hai đẳng cấp Bà la môn và Sát đế lỵ là đẳng cấp Vệ xá (Vaisyas) bao gồm các công thương gia, các nhà doanh nghiệp. Từ cư sĩ báunói trên chỉ các công thương gia, các nhà doanh nghiệp thuộc đẳng cấp Vệ xá này.

Vào thời Phật Thích Ca, từ cư sĩ được dùng rộng rãi để chỉ các gia chủ có thể là Phật tử hay không phải là Phật tử. Trong kinh Giáo thọ Thi Ca La Việt(Trường A Hàm, từ Ca La Việt chỉ cho Cư sĩ. Kinh này ở tạng Pali, có tên là Singalovada, dịch ra chữ Hán là kinh Thiện Sanh).Như vậy, từ cư sĩ trong kinh Singalovadađồng nghĩa với từ gia chủ.

Sau này, trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, phạm vi từ cư sĩ thu hẹp lại để chỉ riêng cho những người Phật tử tu tại gia. Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam đời Lý - Trần có những ông vua Phật tử tuy không xuất gia nhưng vẫn là những thiền sư lỗi lạc, nổi tiếng, những nhà Phật học uyên bác như Lý Thái Tôn, vua thứ hai đời Lý, đệ tử đắc đạo của Thiền sư Thiền Lão. Theo Thiền uyển tập anh, ngài được xếp là một vị Tổ thuộc thế hệ thứ 9 của phái thiền Vô Ngôn Thông. Vua Lý Thánh Tông, vua thứ 3 đời Lý, được công nhận là Tổ thứ 2 của phái thiền Thảo Đường (phái thiền thứ 3 của Việt Nam). Vợ vua là thứ phi Ỷ Lan được nhân dân tôn xưng là Quan Âm nữ cũng là một cư sĩ xuất sắc, có một bài thơ thiền được lưu lại trong sách Thiền uyển. Đời Trần, vua Trần Thái Tông, tác giả cuốn Khóa hư lụcvà Tuệ Trung Thượng sĩ đều là những cư sĩ nổi tiếng mà ngay các tu sĩ cũng đều tôn xưng họ là những bậc thầy trong đạo. Vua Trần Nhân Tông sau này xuất gia lập ra phái thiền Yên Tử cũng tôn xưng Tuệ Trung Thượng sĩ là đạo sư của mình.

2. Người cư sĩ với thân phận tại gia, có thể giác ngộ và giải thoát được hay không?

Theo tôi, người cư sĩ Phật tử Việt Nam ngày nay một mặt tiếp tục duy trì thái độ khiêm tốn truyền thống, tôn trọng Tam bảo, thân cận học hỏi nam nữ tu sĩ như là những bậc thầy tâm linh trong đạo. Nhưng mặt khác – và đây là điều quan trọng hơn – không có mặc cảm tự ti, phát tâm dũng mãnh tu học, mong cầu cũng được giải thoát và giác ngộ như các Tổ cư sĩ ngày xưa trong lịch sử Phật giáo nước nhà.

Trên bước đường tu học, cư sĩ Việt Nam ngày nay được động viên bởi lời khuyên của các vị Tổ như Trần Thái Tông:

"Mặc vấn đại ẩn tiển ẩn, bất câu tăng tục, hưu biệt xuất gia tại gia, nhi chủ yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng" – (Khóa hư lục)

Dịch nghĩa:

"Không phân biệt là sống ở đời hay sống trong rừng, không phân biệt tại gia hay xuất gia, chỉ cốt yếu là biện tâm, vốn không nam nữ, sao lại chấp tướng".

Tổ Trần Nhân Tông trong bài phú Cư trần lạc đạohồi III lại còn khẳng định hơn nữa:

"Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc

Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thật cả đồ công"

Giải nghĩa:

"Là người tại gia mà tu học thành công được giác ngộ và giải thoát thì phúc đức ấy thật là đáng quý hết sức, còn tu ở núi rừng (xuất gia tu ẩn) mà vẫn không giác ngộ (cốc từ nôm nghĩa là giác) thì thật là uổng công".

Chúng ta thấy rõ qua lời dạy của ngài Trần Thái Tông, người cư sĩ (tất nhiên người xuất gia cũng thế) phải biết tu tập tâm. Trần Thái Tông nói biện tâm tức là tìm hiểu tâm mình, tu tập tâm mình.

Muốn tu tập tâm tất nhiên phải luôn luôn tỉnh giác quan sát tâm mình; trong tâm mình nảy sinh ra cảm thọ gì, ý nghĩ gì, quyết định gì chúng ta đều phải biết rõ. Đó là cảm thọ ý nghĩ quyết định đúng hay sai, tích cực hay tiêu cực, có lợi hay có hại cho mình hay cho người để kịp thời điều chỉnh uốn nắn.

Trong kinh Pháp Cú,phẩm "Tâm", Phật dạy nhiều về vấn đề tu tập tâm mà cư sĩ ngày nay nên luôn luôn suy ngẫm:

Kệ 33:

"Người trí làm tâm thẳng

Như thợ tên làm tên..."

Kệ 35:

"Lành thay, điều phục tâm

Tâm điều an lạc đến..."

Kệ 36:

"Người trí phòng hộ tâm,

Tâm hộ an lạc đến..."

Như chúng ta thấy, Đức Phật khuyên chúng ta luôn luôn tỉnh giác để uốn nắn tâm như thợ làm tên uốn nắn tên vậy, phòng hộ tâm, điều phục tâm khi chúng ta gặp phải các nghịch cảnh có thể làm chúng ta nảy sinh ra phiền não tham, sân, si v.v... Có thể nói đời sống người tại gia tạo ra cho họ nhiều cơ hội để hiểu biết tâm mình, rèn luyện tâm mình, bồi dưỡng những đức tính đáng quý như nhẫn nhục, kiên trì, tinh tấn.

---o0o---

Nguồn: Xuân Giác Ngộ 2005

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2010(Xem: 5219)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
01/09/2010(Xem: 12488)
Theo dòng diễn tiến của những cuộc du hóa qua những quốc gia trên thế giới, giàu và nghèo, Đông và Tây, chúng tôi đã từng thấy con người say sưa với niềm vuisướng, và những con người khổ đau. Sự phát triển của khoa học kỷ thuật dường như có đạt được thêm một ít đường nét, một số cải tiến; phát triển thườngcó nghĩa thêm ít nhiều những tòa nhà ở thành thị.
01/09/2010(Xem: 4391)
Chúng ta cần một loại tỉnh thức tập thể. Có những người đàn bà và đàn ông trong chúng ta đã tỉnh thức, nhưng chưa đủ; hầu hết mọi người vẫn đang ngủ…Nếu chúng ta tỉnh thức về tình trạng thật sự của chúng ta, sẽ có một sự thay đổi trong ý thức tập thể của chúng ta. Chúng ta phải làm điều gì đấy để thức tỉnh con người. Chúng ta phải hổ trợ Đức Phật để đánh thức những người đang sống trong mộng.” Thiền Sư Nhất Hạnh, trong Sự Đáp Ứng của Phật Giáo đến Tình Trạng Khẩn Cấp của Khí Hậu.
31/08/2010(Xem: 3576)
Thảm trạng môi trường và xã hội đổ vở bây giờ lan rộng và khắp hành tinh trong sự đo lường. Những sự cải tiến kỷ thuật đã cung ứng cơ sở cho một loại tiến triến mới của xã hội, vượt khỏi những biên giới của văn hóa, tôn giáo, và tâm linh. Tuy thế, kỷ thuật không phải hoàn toàn được điều khiển trực tiếp bởi lý trí, nhưng bởi những động lực nội tại của xã hội học và tâm lý học. Những khuynh hướng bản năng của loài người có những phương diện phá hoại cũng như tốt đẹp. Chúng ta có thể ca tụng kiến thức nghệ thuật, khoa học hay lòng vị tha của chúng ta bao nhiêu đi nữa, thì chúng ta không thể quên đi sự thật rằng chúng ta cũng là những động vật nguy hiểm nhất.
31/08/2010(Xem: 3459)
Một sự phối hợp những nhân tố đang phá hoại một cách nhanh chóng vòng sinh vật – hệ thống sinh thái địa cầu hợp nhất tất cả những chủng loại sinh sống, sự liên hệ và sự tác động qua lại với đá, đất, nước và khí quyển. Hệ thống khí hậu trái đất đã từng cung ứng nền tảng cho nền văn minh nhân loại đến sự phát triển hơn 5.000 năm qua. Xã hội chúng ta bây giờ mới chỉ bắt đầu nhận ra chiều sâu của sự liên hệ hổ tương sinh thái này. Sự khủng hoảng khí hậu mà chúng ta đang đối diện là nguyên nhân bởi sự vượt quá giới hạn khí carbon kết quả từ sự tiêu thụ nhiên liệu lỗi thời (than đá, dầu mõ,…), và từ sự tàn phá rừng. Điều chỉnh hành động là khẩn thiết cho sự tồn tại của chính loài người chúng ta. Tất cả những kỷ thuật chúng ta cần để tránh khí hậu tan vở đã hiện diện rồi.
30/08/2010(Xem: 6450)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 8194)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 9867)
Nhiều người cho rằng Phật giáo là một tôn giáo nên không có sự quan hệ với vấn đề kinh tế đó là nhận định sai lầm, bởi vì con người là một hợp thể do ngũ uẩn tạo thành chia làm hai phần là Vật chất (sắc) và tinh thần (danh). Con người không thể chỉ dựa vào tinh thần không thôi mà có thể tồn tại được, nhưng con người cũng không thể chỉ là động vật thuần nhất về kinh tế vật chất.
30/08/2010(Xem: 10175)
Đạo đức là ngành học đánh giá các hành vi con người biểu hiện qua các hành động của thân, lời và ý do lý trí, ý chí và tình cảm cá nhân thực hiện. Các nhà tư tưởng và các nhà đạo đức thường quan niệm khác nhau về giá trị, tiêu chuẩn giá trị. Dù vậy, vẫn có nhiều nét tư tưởng gặp gỡ rất cơ bản về ý nghĩa đạo đức, nếp sống đạo đức mà ở đó giá trị nhân văn của thời đại được đề cao.
30/08/2010(Xem: 9418)
Tất cả chúng ta đều mong ước sống trong một thế giới an lạc và hạnh phúc hơn. Nhưng nếu chúng ta muốn biến nó trở thành hiện thực, chúng ta phải bảo đảm rằng lòng từ bi là nền tảngcủa mọi hành động. Điều này lại đặc biệt đúng đối với các đường lối chủ trương về chính trị và kinh tế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]