Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 21: Quyền lực và Nhận biết

18/07/201102:02(Xem: 3581)
Chương 21: Quyền lực và Nhận biết

J. KRISHNAMURTI
TỰ DO ĐẦU TIÊN VÀ CUỐI CÙNG
THE FIRST & LAST FREEDOM
Lời dịch: Ông Không –2010

CHƯƠNG XXI
QUYỀN LỰC VÀ NHẬN BIẾT

Chúng ta thấy rằng một thay đổi cơ bản là cần thiết trong xã hội, trong chính chúng ta, trong những liên hệ giữa nhóm người và cá thể của chúng ta; làm thế nào điều này được tạo ra? Nếu thay đổi qua sự tuân phục vào một khuôn mẫu được chiếu rọi bởi cái trí, qua một kế hoạch hợp lý được nghiên cứu kỹ càng, vậy thì nó vẫn còn trong lãnh vực của cái trí; vì vậy bất kỳ điều gì cái trí tính toán đều trở thành sự kết thúc, một tầm nhìn mà chúng ta sẵn sàng hy sinh chính chúng ta và những người khác. Nếu chúng ta duy trì điều đó, vậy thì điều tiếp theo là, chúng ta, như những con người chỉ là sự tạo tác của cái trí, mà hàm ý tuân phục, cưỡng bách, hung bạo, những độc tài, những trại tập trung – toàn công việc đó. Khi chúng ta tôn sùng cái trí, tất cả điều đó được hàm ý, đúng chứ? Nếu tôi nhận ra điều này, nếu tôi thấy sự vô lý của kỷ luật, của kiểm soát, nếu tôi thấy rằng những hình thức khác nhau của kiềm chế chỉ củng cố ‘cái tôi’ và ‘cái của tôi’, vậy thì tôi sẽ phải làm gì đây?

Muốn suy xét vấn đề này đầy đủ chúng ta phải tìm hiểu câu hỏi ý thức là gì. Tôi không biết liệu bạn đã suy nghĩ về ý thức là gì cho chính bạn hay chỉ trích dẫn những uy quyền đã giải thích về nó? Tôi không biết liệu bạn đã hiểu rõ từ trải nghiệm riêng của bạn, từ sự tìm hiểu riêng của chính bạn, ý thức này hàm ý điều gì – không chỉ ý thức của những theo đuổi và mọi hoạt động hàng ngày nhưng còn cả ý thức che giấu, sâu thẳm hơn, phong phú hơn và nhiều khó khăn để nắm bắt hơn. Nếu chúng ta muốn bàn luận về vấn đề của một thay đổi cơ bản trong chính chúng ta và vì vậy trong thế giới, và trong thay đổi này đánh thức được một tầm nhìn nào đó, một nhiệt thành, một hăm hở, một trung thành, một hy vọng, một chắc chắn mà sẽ cho chúng ta động cơ cần thiết cho hành động – nếu chúng ta muốn hiểu rõ điều đó, liệu không cần thiết phải tìm hiểu câu hỏi của ý thức này hay sao?

Chúng ta có thể thấy rằng, chúng ta có ý gì qua từ ngữ ý thức tại mức độ hời hợt của cái trí. Rõ ràng nó là qui trình của suy nghĩ, tư tưởng. Tư tưởng là kết quả của ký ức, được từ ngữ hóa; nó là sự đặt tên, ghi lại và lưu trữ những trải nghiệm nào đó, để có thể truyền đạt; tại mức độ này cũng có vô số những kiềm chế, những kiểm soát, những thưởng phạt, những kỷ luật. Chúng ta hoàn toàn quen thuộc tất cả điều này. Khi chúng ta tìm hiểu sâu xa hơn một chút, còn có tất cả những tích lũy của chủng tộc, những động cơ che giấu, những tham vọng, những thành kiến cá thể hay tập thể mà là kết quả của nhận biết, tiếp xúc và ham muốn. Toàn ý thức này, ý thức che giấu và ý thức hiển lộ, được tập trung quanh ý tưởng của ‘cái tôi’, cái ngã.

Khi chúng ta bàn luận làm thế nào để tạo ra một thay đổi chúng ta thông thường có ý một thay đổi tại mức độ hời hợt, đúng chứ? Qua khẳng định, kết luận, những niềm tin, những kiểm soát, những kiềm chế, chúng ta đấu tranh để đạt được một kết thúc hời hợt mà chúng ta muốn, mà chúng ta khao khát, và chúng ta hy vọng đến được đó với sự trợ giúp của tầng ý thức bên trong, của những tầng sâu thẳm hơn của cái trí; vì vậy chúng ta nghĩ, cởi bỏ những chiều sâu của chính người ta là điều rất cần thiết. Nhưng có sự xung đột mãi mãi giữa những tầng ý thức bên ngoài và những tầng tạm gọi là sâu thẳm hơn – tất cả những người tâm lý học, tất cả những người đã theo đuổi sự hiểu rõ về chính mình hoàn toàn nhận biết được điều đó.

Liệu xung đột phía bên trong này sẽ tạo ra một thay đổi? Đó không là câu hỏi quan trọng và căn bản nhất trong sống của chúng ta: làm thế nào để tạo ra một thay đổi cơ bản trong chính chúng ta? Thuần túy thay đổi tại mức độ hời hợt sẽ tạo ra nó được không? Hiểu rõ những tầng khác nhau của ý thức, của ‘cái tôi’, cởi bỏ quá khứ, những trải nghiệm cá thể từ thời niên thiếu đến nay, tìm hiểu trong chính tôi những trải nghiệm tập thể của người cha của tôi, người mẹ của tôi, tổ tiên của tôi, chủng tộc của tôi, tình trạng bị quy định của xã hội đặc biệt trong đó tôi sống – liệu sự phân tích về tất cả việc đó sẽ tạo ra một thay đổi mà không chỉ là một điều chỉnh?

Tôi cảm thấy, và chắc chắn bạn cũng phải cảm thấy, rằng một thay đổi cơ bản trong chính sống của người ta là cốt lõi – một thay đổi mà không chỉ là một phản ứng, mà không là kết quả của sự căng thẳng và áp lực của những đòi hỏi thuộc môi trường sống. Làm thế nào người ta sẽ tạo ra một thay đổi như thế? Ý thức của tôi là ‘tổng thể những trải nghiệm của con người’, cộng thêm sự tiếp xúc đặc biệt của tôi với hiện tại; liệu ý thức đó có thể tạo ra một thay đổi? Liệu sự tìm hiểu về ý thức riêng của tôi, những hoạt động riêng của tôi, liệu nhận biết được những suy nghĩ và cảm thấy của tôi, đang làm yên lặng cái trí với mục đích quan sát mà không-phê bình, liệu qui trình đó sẽ tạo ra một thay đổi? Liệu có thể thay đổi qua niềm tin, qua đồng hóa với một hình ảnh chiếu rọi được gọi là lý tưởng? Tất cả việc này không hàm ý một xung đột nào đó giữa tôi là gì và tôi nên là gì? Liệu xung đột sẽ tạo ra một thay đổi cơ bản? Tôi liên tục đấu tranh bên trong chính tôi và xã hội, phải không? Có một xung đột không ngừng nghỉ giữa tôi là gì và tôi muốn là gì; liệu xung đột này, đấu tranh này sẽ tạo ra một thay đổi? Tôi thấy một thay đổi là cốt lõi; liệu tôi có thể tạo ra nó bằng cách tìm hiểu toàn qui trình thuộc ý thức của tôi, bằng cách đấu tranh, bằng cách kỷ luật, bằng cách luyện tập nhiều hình thức khác nhau của kiềm chế? Tôi cảm thấy một qui trình như thế không thể tạo ra một thay đổi cơ bản. Người ta phải tuyệt đối chắc chắn về điều đó. Và nếu qui trình đó không thể tạo ra một thay đổi cơ bản, một cách mạng sâu thẳm bên trong, vậy thì cái gì sẽ?

Làm thế nào bạn tạo ra được cách mạng thực sự? Quyền lực, năng lượng sáng tạo mà sẽ tạo ra cách mạng đó là gì, và làm thế nào nó được giải thoát? Bạn đã thử những kỷ luật, bạn đã thử theo đuổi những lý tưởng và vô số những lý thuyết phỏng đoán nào đó: rằng bạn là Thượng đế, và rằng nếu bạn có thể nhận ra chất lượng Thượng đế hay trải nghiệm Đại ngã, cái tối thượng, hay điều gì bạn muốn, vậy thì chính nhận ra đó tạo ra một thay đổi cơ bản. Liệu đúng chứ? Trước tiên bạn giả thuyết rằng có một sự thật mà bạn là một bộ phận và dựng lên quanh nó vô số những lý thuyết, những phỏng đoán, những niềm tin, những giáo điều, những giả thuyết, tùy theo đó bạn sống; bằng cách suy nghĩ và hành động tùy theo khuôn mẫu đó, bạn hy vọng tạo ra một thay đổi cơ bản. Đúng chứ?

Giả sử bạn phỏng đoán, giống như hầu hết những người tạm gọi là tôn giáo đều làm, rằng có trong bạn, sâu thẳm, bản thể của sự thật; và rằng nếu, qua sự vun đắp đạo đức, qua vô vàn hình thức của kỷ luật, kiểm soát, kiềm chế, chối từ, hi sinh, bạn có thể tiếp xúc với sự thật đó, vậy thì sự thay đổi cần thiết sẽ được tạo ra. Giả thuyết này vẫn là một phần của tư tưởng, đúng chứ? Nó là kết quả của một cái trí bị quy định, một cái trí được nuôi dưỡng để suy nghĩ trong một phương cách đặc biệt, tùy theo những khuôn mẫu nào đó? Bởi vì đã tạo ra hình ảnh, ý tưởng, lý thuyết, niềm tin, hy vọng, tiếp theo bạn nhờ cậy sự sáng tạo của bạn để tạo ra sự thay đổi cơ bản này.

Trước hết người ta phải thấy được hoạt động tinh vi lạ lùng của ‘cái tôi’, của cái trí, người ta phải trở nên nhận biết được những ý tưởng, những niềm tin, những phỏng đoán và gạt đi tất cả chúng, bởi vì chúng thực sự là những lừa dối, phải không? Những người khác có lẽ đã trải nghiệm sự thật; nhưng nếu bạn không trải nghiệm nó, tốt lành gì khi giả thuyết về nó hay tưởng tượng rằng bạn ở trong bản thể của cái gì đó thực sự, vĩnh cửu, thiêng liêng? Nó vẫn còn trong lãnh vực của tư tưởng và bất kỳ điều gì khởi nguồn từ tư tưởng đều bị quy định, thuộc thời gian, thuộc ký ức; vì vậy nó không-thực sự. Nếu người ta thực sự nhận ra điều đó – không phải giả thuyết, không phải tưởng tượng hay khờ khạo, nhưng thực sự thấy rằng bất kỳ hoạt động nào của cái trí trong sự tìm kiếm giả thuyết của nó, trong sự tìm kiếm triết lý của nó, bất kỳ giả thuyết nào, bất kỳ sự tưởng tượng hay hy vọng nào chỉ là tự-lừa dối – vậy thì quyền lực, năng lượng sáng tạo mà tạo ra sự thay đổi cơ bản là gì?

Có lẽ, trong đến được mấu chốt đó, chúng ta đã sử dụng cái trí có ý thức; chúng ta đã theo sát sự bàn luận, chúng ta đã phản đối hay chấp nhận nó, chúng ta đã thấy nó rõ ràng hay mờ mờ. Muốn thâm nhập và trải nghiệm sâu xa hơn nữa cần đến một cái trí yên lặng và tỉnh táo để tìm ra, phải không? Nó không còn đang theo đuổi những ý tưởng bởi vì, nếu bạn theo đuổi một ý tưởng, có người suy nghĩ đang theo sát điều gì đang được nói, và thế là ngay lập tức bạn tạo tác sự phân hai. Nếu bạn muốn tìm hiểu sâu xa hơn nữa vấn đề của thay đổi cơ bản này, liệu không cần thiết cho một cái trí năng động phải yên lặng hay sao? Chắc chắn chỉ khi nào cái trí yên lặng nó mới có thể hiểu rõ sự khó khăn cực kỳ, những hàm ý phức tạp của người suy nghĩ và suy nghĩ như hai qui trình tách rời, người trải nghiệm và vật được trải nghiệm, người quan sát và vật được quan sát. Cách mạng, cách mạng sáng tạo thuộc tâm lý này, trong đó ‘cái tôi’ không hiện diện, chỉ xảy ra khi người suy nghĩ và suy nghĩ là một, khi không có sự phân hai như người suy nghĩ đang kiểm soát suy nghĩ; và tôi gợi ý rằng chính trải nghiệm này, một mình nó, mới giải thoát năng lượng sáng tạo mà phản hồi bằng sáng tạo một cách mạng cơ bản, phá vỡ ‘cái tôi’ thuộc tâm lý.

Chúng ta biết phương cách của quyền lực – quyền lực qua thống trị, quyền lực qua kỷ luật, quyền lực qua cưỡng bách. Qua quyền lực chính trị chúng ta hy vọng thay đổi một cách cơ bản; nhưng quyền lực như thế chỉ nuôi dưỡng thêm tối tăm, phân rã, tội lỗi, củng cố ‘cái tôi’. Chúng ta quen thuộc với vô số hình thức của kiếm được, cả cá thể lẫn những nhóm người, nhưng chúng ta đã không bao giờ cố gắng theo phương cách của tình yêu, và thậm chí chúng ta không biết nó có nghĩa gì. Tình yêu không thể xảy ra được chừng nào còn có người suy nghĩ, trung tâm của ‘cái tôi’. Khi nhận ra tất cả việc này, người ta phải làm gì đây?

Chắc chắn việc duy nhất có thể tạo ra sự thay đổi cơ bản, một giải thoát thuộc tâm lý, sáng tạo, là sự cảnh giác mỗi ngày, tỉnh thức từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc những động cơ của chúng ta, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn tầng ý thức bên trong. Khi chúng ta nhận ra rằng những kỷ luật, những niềm tin, những ý tưởng chỉ củng cố thêm ‘cái tôi’ và vì vậy hoàn toàn vô ích – khi chúng ta tỉnh thức được điều đó từ ngày sang ngày, thấy sự thật của nó, chúng ta không đến được mấu chốt khi người suy nghĩ đang liên tục tách rời chính anh ấy khỏi suy nghĩ của anh ấy, khỏi những quan sát của anh ấy, khỏi những trải nghiệm của anh ấy, hay sao? Chừng nào người suy nghĩ còn hiện diện tách rời khỏi suy nghĩ của anh ấy, mà anh ấy đang cố gắng thống trị, không thể có thay đổi cơ bản. Chừng nào ‘cái tôi’ còn là người quan sát, người thâu lượm trải nghiệm, còn tự-củng cố chính anh ấy qua trải nghiệm, không có thay đổi cơ bản, không có giải thoát sáng tạo. Giải thoát sáng tạo đó hiện diện chỉ khi nào người suy nghĩ là suy nghĩ – nhưng khoảng cách đó không thể được kết nối bởi bất kỳ nỗ lực nào. Khi cái trí nhận ra rằng, bất kỳ phỏng đoán nào, bất kỳ từ ngữ hóa nào, bất kỳ hình thức nào của suy nghĩ chỉ tạo nên sức mạnh cho ‘cái tôi’, khi nó thấy rằng chừng nào người suy nghĩ còn tồn tại tách rời khỏi suy nghĩ, phải có sự giới hạn, xung đột của sự phân hai – khi cái trí nhận ra điều đó, vậy thì nó tỉnh táo, luôn luôn nhận biết được rằng nó đang tách rời chính nó khỏi trải nghiệm, đang khẳng định chính nó, đang tìm kiếm quyền hành như thế nào. Trong nhận biết đó, nếu cái trí luôn luôn theo đuổi nó sâu thẳm hơn và tổng thể hơn mà không tìm kiếm một kết thúc, một mục đích, kia kìa có một trạng thái mà trong đó người suy nghĩ và suy nghĩ là một. Trong trạng thái đó không có nỗ lực, không có đang trở thành, không có ham muốn để thay đổi; trong trạng thái đó ‘cái tôi’ không còn, bởi vì có một thay đổi mà không thuộc cái trí.

Chỉ khi nào cái trí trống không mới có thể có sáng tạo; nhưng tôi không có ý nói sự trống không hời hợt này mà hầu hết chúng ta đều có. Hầu hết chúng ta đều trống không hời hợt, và nó bộc lộ chính nó qua sự ham muốn để xao nhãng. Chúng ta muốn được vui chơi, vì vậy chúng ta dựa vào những quyển sách, vào máy thâu thanh, chúng ta tìm đến những người giảng thuyết, những uy quyền; cái trí luôn luôn đang tự-lấp đầy chính nó. Tôi không đang nói về trống không đó mà là trạng thái không suy nghĩ. Trái lại, tôi đang nói về trống không mà đến qua trạng thái suy nghĩ lạ thường, khi cái trí thấy khả năng tạo tác ảo tưởng riêng của nó và vượt khỏi.

Trống không sáng tạo không thể hiện diện chừng nào còn có người suy nghĩ mà đang chờ đợi, đang nhìn ngắm, đang quan sát với mục đích để kiếm được trải nghiệm, với mục đích để củng cố chính anh ấy. Liệu cái trí có khi nào được trống không khỏi tất cả những biểu tượng, tất cả những từ ngữ cùng những cảm giác của nó, để cho không còn người trải nghiệm đang tích lũy? Liệu cái trí có thể gạt đi tuyệt đối tất cả những lý luận, những trải nghiệm, những áp đặt, những uy quyền, để cho nó trong một trạng thái trống không? Bạn sẽ không thể trả lời được câu hỏi này, một cách tự nhiên; nó là một nghi vấn không có đáp án cho bạn, bởi vì bạn không biết, bạn đã không bao giờ cố gắng. Nhưng, nếu tôi được phép đề nghị, hãy lắng nghe nó, hãy để cho câu hỏi được thả vào trong bạn, hãy để cho hạt giống được gieo; và nó sẽ ra quả nếu bạn thực sự lắng nghe nó, nếu bạn không kháng cự nó.

Chính cái mới mẻ mới có thể thay đổi, không phải cái cũ kỹ. Nếu bạn theo đuổi khuôn mẫu của cái cũ kỹ, bất kỳ sự thay đổi nào là một tiếp tục được bổ sung của cái cũ kỹ; trong đó không có gì mới mẻ, không có gì sáng tạo. Sáng tạo chỉ có thể hiện diện khi chính cái trí là mới mẻ; và cái trí có thể tự-làm mới mẻ lại cho chính nó chỉ khi nào nó có thể thấy được tất cả những hoạt động riêng của nó, không chỉ ở tầng hời hợt, nhưng sâu thẳm. Khi cái trí thấy được những hoạt động riêng của nó, tỉnh thức được những ham muốn, những đòi hỏi, những thôi thúc, những theo đuổi riêng của nó, sự tạo tác của những uy quyền, những sợ hãi riêng của nó; khi nó thấy trong chính nó sự kháng cự được tạo ra bởi kỷ luật, bởi kiểm soát, và sự hy vọng mà chiếu rọi những niềm tin, những lý tưởng – khi cái trí thấy thấu suốt, nhận biết được toàn qui trình này, liệu nó có thể gạt đi tất cả những sự việc này và hoàn toàn mới mẻ, trống không một cách sáng tạo? Bạn sẽ tìm ra liệu nó có thể hay không thể chỉ khi nào bạn thử nghiệm mà không có bất kỳ ý kiến nào về nó, không có bất kỳ mong muốn để trải nghiệm trạng thái sáng tạo đó. Nếu bạn mong muốn trải nghiệm nó, bạn sẽ nhận được; nhưng điều gì bạn trải nghiệm không là trống không sáng tạo, nó chỉ là một chiếu rọi của ham muốn. Nếu bạn ham muốn để trải nghiệm cái mới mẻ, bạn chỉ đang buông thả trong ảo tưởng; nhưng nếu bạn bắt đầu quan sát, nhận biết được những hoạt động riêng của bạn từ ngày sang ngày, từ khoảnh khắc sang khoảnh khắc, nhìn ngắm toàn qui trình của chính bạn như trong một cái gương, vậy thì, bởi vì bạn thâm nhập sâu thẳm hơn và sâu thẳm hơn, bạn sẽ đến được nghi vấn tối hậu của trống không này mà, một mình nó, có thể có cái mới mẻ.

Sự thật, Thượng đế hay bất kỳ điều gì bạn muốn, không là cái gì đó để được trải nghiệm, vì người trải nghiệm là kết quả của thời gian, kết quả của ký ức, của quá khứ, và chừng nào còn có người trải nghiệm, không thể có sự thật. Có sự thật chỉ khi nào cái trí hoàn toàn được tự do khỏi người phân tích, khỏi người trải nghiệm và vật được trải nghiệm. Lúc đó bạn sẽ tìm được đáp án, lúc đó bạn sẽ thấy rằng sự thay đổi hiện diện không cần sự mời mọc của bạn, rằng trống không sáng tạo đó không là một sự việc để được vun đắp – nó hiện diện ở đó, nó đến một cách lặng lẽ, không cần bất kỳ sự mời mọc nào; chỉ trong trạng thái đó mới có thể có mới mẻ lại, trạng thái mới mẻ, cách mạng.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2016(Xem: 5897)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12247)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7223)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6808)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26787)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14175)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 20034)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22788)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18552)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 24962)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567