Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ sự suy vong của Phật giáo Ấn Độ, nghĩ về văn hóa Việt Nam.

09/04/201312:48(Xem: 4137)
Từ sự suy vong của Phật giáo Ấn Độ, nghĩ về văn hóa Việt Nam.

TỪ SỰ SUY VONG CỦA PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ,

NGHĨ VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Nhất Thanh

---o0o---

… Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ mười hai đã phá hoại, san bằng những thánh tích và giết sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật giáo Ấn Độ không đơn thuần suy vong bởi những phá hoại ấy mà do chính những người vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật…

Phật giáo ví như những bó mạ được gieo trên mảnh ruộng Ấn Độ. Những cây mạ non được nhổ đi cấy trên nhiều mảnh ruộng khác và đã tạo ra rất nhiều đồng lúa trĩu hạt, thế mà trên mãnh ruộng gốc kia, mạ lại chẳng cho được hạt nào. Nghĩ như thế cũng có phần hời hợt, bởi vì kỳ thực nhân sinh quan Phật giáo đã ăn sâu vào đời sống, nếp ăn nếp nghĩ của người Ấn Độ đến mức khiến cho người vội vàng khó nhận ra được nó. Người ta gọi đó là thứ văn hóa chiều sâu (deep colture), còn sự phát triển trên bề mặt (surface development) của Phật giáo Ấn Độ đến nay gần như tuyệt diệt. Những người chủ của các đồng lúa trĩu hạt kia (như người Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Sri Lanka, Myanmar, Tây Tạng…) và cả những người mới nhân giống trên mảnh đất mầu mỡ của họ (như các nước Âu Mỹ) đang đem những hạt giống Phật giáo về gieo lại trên mảnh ruộng Ấn Độ. Nghĩa cử đó có thể là biểu hiện của lòng nhớ nguồn nhớ cội, cũng có thể vì người ta hiểu rằng, trên xứ sở tâm linh kia, xứ sở có một nền văn hóa lâu đời nhất thế giới, có những con sông dài nhất thế giới, có những vĩ nhân lớn nhất thế giới, cội nguồn của mọi tôn giáo triết học, chắc chắn hạt giống Phật giáo sẽ lại ươm mầm mạnh mẽ nếu người ta biết chắt lọc, phân định, không để chúng lẫn lộn với những hạt giống khác, và không để những thứ cỏ dại làm ảnh hưởng đến hạt giống hiền hòa kia.

Trước khi tôi đi Ấn Độ, một người bạn đã bảo tôi rằng: “Đi Ấn Độ mà làm gì! Phật giáo chẳng còn gì ở đất nước ấy cả”. Nhưng khi thong thả chu du các vùng Nam-Bắc Ấn, tôi chợt nhận ra rằng vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về Ấn Độ, bởi vì Ấn Độ là một đất nước có nhiều tầng văn hóa trong một không gian và thời gian. Nếu bạn thử dạo chơi vào một buổi chiều ở thành cổ Ba La Nại (Vanares) hay Calcutta, bạn sẽ cảm thấy vô cùng thú vị, khi trên cùng một đường phố dọc bờ sông Hằng (Ganga), những ngôi thành cổ bên cạnh những tòa cao ốc cực kỳ hiện đại, trong khi bên dưới vẫn còn những người sống một đời sống cây cỏ như cách đây mấy ngàn năm. Trên đường còn nguyên vẹn những đường ray xe điện với những chuyến tàu ngang dọc có thời thuộc địa Anh, trong khi dưới lòng đất là cả một hệ thống metro hiện đại chằng chịt. Những gã nhà giàu bụng bự bóp còi xe inh ỏi chở những cô gái mang sắc phục Hồi giáo phủ voan đen kín mặt; những đạo sĩ Hindu tay khoát nước sông Hằng hướng về phía mặt trời cầu nguyện; những chàng trai đạo Sikh tóc dài bới cao bởi một chiếc khăn; những chú bò đi nghênh ngang trên đường phố đông người; những chàng Tây ba-lô lội vào các hàng quán mua vải lụa Kasia dệt bằng máy dệt thô sơ thời trung cổ; những người kéo xe tay, chiếc xe chri có hai cần và hai chiếc bánh to hơn bánh xe bò; và cả những giáo sĩ đạo Kỳ na (Jainism) lõa lồ ngang nhiên trên đường phố… Tất cả đều ở trong cùng một không gian, một thời gian … Ấn Độ.

Với những thứ người ta nhìn thấy được, đúng là Phật giáo không còn ở Ấn Độ, ngoài Tứ động tâm (bốn thánh tích Phật giáo quan trọng) và những hang động vùng Nam Ấn. Nhưng ngắm nhìn một cách kỹ lưỡng hơn, ta thấy Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, có một vị vua tên A Dục (Akosa) đã kính ngưỡng Phật giáo và sắc ban những đạo luật quan trọng. Rất nhiều ảnh hưởng của Phật giáo qua vị vua này vãn còn hiện diện, như việc hết sức hạn chế không phá hoại cây rừng, không bắn giết chim thú, thiết lập những bồn nước uống cho người qua đường dọc các thành phố… Ngày nay, giữa thủ đô Delhi vẫn còn một mảng rừng nguyên sinh, và người ta tôn trọng cây cối đến nỗi trên một đoạn đường cao tốc vẫn còn những cây cổ thụ chắn ngang gtiưa đường mà không bị đốn phá, chim thú vẫn sống xen lẫn với người, khách bộ hành không có tiền dù đi khắp thành thành thị thôn quê vẫn không sợ khát. Đó là nói về văn hóa vật thể, còn văn hóa phi vật thể của Phật giáo trong đời sống người dân Ấn Độ thì rất sâu đậm như: thái độ trước cái chết, tình hiền hòa hỷ xả, niềm tin sâu sắc vào đời sống tâm linh, xem thường vật chất, thích ăn chay, kiêng rượu thịt…, tất cả hòa quyện vào với văn hóa Hindu, khiến chúng ta khó lòng nhận ra màu sắc Phật giáo. Bên cạnh đó, những bữa cơm thường ngày của người dân Ấn cũng chua dưới bảng hiệu một câu Vegand Nonveg (chay và không chay). Thức ăn chay hầu hết dành cho dân bản xứ, thức ăn mặn dành cho du khách. Điều ngạc nhiên nhất của tôi là khi đi vào bất kỳ quán ăn nào ở Ấn Độ cũng thấy có sẵn đồ chay.

Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ mười hai đã phá hoại, san bằng những thánh tích và giết sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật giáo không phải do suy vong ở Ấn Độ bởi những người phá hoại Phật giáo, mà do chính những người vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật.

Đạo Hindu được xem như là quốc giáo của Ấn Độ, có truyền thống từ mấy nghìn năm, trước cả khi Đức Phật ra đời. Khi còn là một thái tử, Đức Thế Tôn cũng từng được học Tứ Phệ-đà, thánh điển của Bà La Môn. Một số quan niệm của Phệ-đà (Veda) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) vẫn còn dấu ấn trong kinh điển Phật giáo. Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo và giáo hóa ở Ấn Độ, người Ấn, đặc biệt là người theo Bà La Môn đã xem Đức Phật như một vị thần trong tín ngưỡng của họ. Và người ta vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật như thờ lạy một vị thần linh. Trong khi quan niệm của Bà La Môn là hữu ngã, thế giới này do Brama sáng tạo ra, thì Đức Phật lại chủ trưong vô ngã, vạn pháp duyên sinh. Thế rồi người ta chắc lọc hết những tinh ba của văn hóa Phật giáo - ngoại trừ quan niệm về Ngã - đem vào văn hóa truyền thống của họ, nhất là hình thức bên ngoài, dần dần được Hindu hóa. Ngay trong những thánh tích Phật giáo quan trọng như Tứ động tâm, người ta dựng cả một đền thờ Hindu phía trước, họ đem cả Linga vào đặt trước điện Phật, rồi hàng ngày, bao nhiêu người lũ lượt vào lạy lục cầu nguyện, và thờ Phật theo quan niệm Hindu.

Văn hóa có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là khi văn h��a được duy trì bằng phương cách bảo thủ thì không có sức mạnh nào có thể phá hủy được. Những thánh tích Phật giáo bị Hồi giáo phá hủy có thể xây dựng lại được, nhưng văn hóa Phật giáo đã được Hindu hóa rồi thì khó nhận ra.

Từ văn hóa Phật giáo Ấn Độ, liên hệ đến văn hóa Phật giáo Việt Nam, xem ra, với những gì người ta thấy được, Phật giáo Việt Nam cũng là một trong những nước Phật giáo mạnh nhất thế giới.

Ở Việt Nam hiện tại có đa số dân là Phật tử hoạc tự nhận mình là Phật tử, theo đạo Phật, khoảng 35 nghìn tu sĩ, gần 15 nghìn chùa chiền có mặt khắp phố cùng quê. Dân tộc Việt Nam nói có tới 4.000 năm văn hiến, nhưng những gì còn được ghi lại thực chất chỉ hơn 2.000 năm. Và ngót khoảng thời gian ấy là có sự hiện diện của Phật giáo. Nếu không có nền văn hóa Phật giáo ăn sâu vào tâm hồn người dân Việt, dân tộc Việt Nam hẳn đã bị Nho hóa một cách cứng nhắc bởi 1.000 năm Bắc thụôc rồi. Thậm chí nếu không có văn hóa Phật giáo với khả năng dung hòa và uyển chuyển, bản đồ Việt Nam cũng có thể đã thuộc về phương Bắc. Nói như thế không phải là quá đáng, bởi vì chúng ta bị họ đô hộ, chúng ta dùng ngôn ngữ văn tự của họ, sống theo nhân sinh quan của họ. Nhưng có nhiều cuộc đại thắng phương Bắc của dân tộc ta là do chính những triều đại, những ông vua Phật giáo, hoặc những ông vua trị quốc dưới sự cố vấn của các nhà sư Phật giáo làm nên. Điều ấy là lịch sử hiển nhiên không cần bàn cãi. Thế thì việc bảo tồn, phát huy văn hóa Phật giáo là việc làm quan trọng để duy trì và phát triển văn hóa dân tộc, sự tồn sinh của dân tộc. Sự bảo tồn và phát huy ấy phải nằm trong một chiến lược lâu dài, cả vĩ mô lẫn vi mô, bằng ý thức của chính những người lãnh đạo và khắp nhân dân.

Với văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện đại, nếu nhìn từ sự suy vong của Phật giáo Ấn Độ, hẳn có nhiều điều để chúng ta suy ngẫm. Chúng ta tự hào là một nước Phật giáo mạnh, nhưng thực chất nó đang mạnh trên bề mặt, còn chiều sâu văn hóa đã dần cạn đi bởi rất nhiều lý do chủ quan và khách quan. Nếu không khôi phục và phát huy chiều sâu văn hóa thì Phật giáo Việt Nam rồi cũng sẽ suy vong bởi chính những người đang thờ lạy hoặc cổ xúy Phật giáo. Đứng về mặt văn hóa vật thể mà đại biểu là kiến trúc và các thánh tích Phật giáo, nếu chỉ so sánh với Ấn Độ thôi, chúng ta cũng chỉ là một cành cây trụi lá giữa đồng hoang so với mảng rừng trù phú ở Ấn Độ. Ngoài Tứ động tâm được xem là di sản văn hóa lớn của nhân loại, Ấn Độ còn có vô số những di chỉ quan trọng khắp vùng Nam Ấn như Đại tháp Sanchi, quần thể hang động Phật giáo giáo ở Aurangabad (như Ajanta, Ellora), Hyderabad, Mumbai, Puné, Nagajruna v.v… Đó là những kỳ quan thế giới được tạo dựng trên hai ngàn năm, trải qua nhiều thế hệ, bảo lưu vô số những công trình hội họa, điêu khắc và đặc biệt là linh khí hội tụ từ lịch đại Tổ sư Phật giáo. Hàng ngày, có hàng triệu lượt du khách từ khắp mọi nơi trên thế giới đến chiêm bái, cầu nguyện và tham quan du lịch. Du lịch Ấn Độ là du lịch tâm linh. Hành hương chính là hồi hương về những miền đất thánh của tâm hồn. và điều làm tôi ngạc nhiên nhất là những du khách đến tham quan những di tích Phật giáo Ấn Độ nhiều nhất là những người đến từ một cường quốc kinh tế thế giới: Nhật Bản. Đất nước Nhật như chiếc thuyền con giữa đại dương, họ hiểu hơn ai hết khi một chiếc thuyền bị nghiêng một bên thì nó sẽ bị chìm. Nên một mặt họ phát triển kinh tế, một mặt họ tạo điều kiện cho dân đi du lịch tâm linh khắp thế giới, hấp thụ tinh ba của nhân loại về làm giàu cho văn hóa của họ. Chính Suzuki, một học giả người Nhật nổi tiếng thế giới đã từng nói; Xã hội giống như một chiếc ghế ba chân, nếu cứ kéo dài cái chân ghế kinh tế và khoa học kỹ thuật trong khi hai chân ghế đạo đức tâm linh và thuần phong mỹ tục ngày càng ngắn lại thì chiếc ghế sẽ mất thăng bằng, sẽ ngã đổ. Đó là những bài học quý báu trên chiến lược phát triển văn hóa dân tộc. Ở Việt Nam, những kiến trúc Phật giáo hàng ngàn năm còn lại chỉ là một vài, một phần do binh lửa chiến tranh, một phần do chính con người phá hoại. Ngày nay người ta cũng có ý thức bảo tồn, nhưng không hoàn toàn vì mục đích Phật giáo. Hàng ngày có hàng triệu người Việt Nam đến các chùa lễ Phật, nhưng được bao nhiêu người lạy Phật theo tinh thần Phật giáo? Sách báo thời đại thông tin lan tràn, nhưng những gì viết về văn hóa Phật giáo hoặc đạo đức tâm linh chỉ như muối bỏ biển. Đó là chưa nói đến sự tấn công từ nhiều mặt, sự tiếp nhận văn hóa phương Tây một cách thiếu chọn lọc đang làm băng hoại văn hóa bản địa, héo úa tình thương, bào mòn tính nhân bản. Để bảo tồn và phát huy văn hóa Phật giáo, người viết xin góp vài ý kiến nhỏ nhoi:

- Đối với những di chỉ Phật giáo, hãy dành cho nó một vị trí khang trang, xứng với tầm vóc của nó, tạo một không khí du lịch tâm linh rộng rãi.

- Khơi dậy truyền thống dân tộc, niềm tự hào dân tộc bằng chính trí tuệ, tình yêu và tâm hồn người Việt.

- Tổ chức các đoàn thể sinh hoạt văn hóa trên cơ sở giáo lý Phật giáo, giúp thanh thiếu niên có môi trường sinh hoạt, vui chơi giải trí lành mạnh.

- Đăng tải trên phương tiện truyền thông đại chúng những tác phẩm, những bài khảo cứu, bài viết có nội dung hướng về đạo hiếu nguồn ân, tránh xa những văn hóa dục lạc, đồi trụy.

- Bồi dưỡng nhân tài, dành mọi ưu tiên cho những con người và tổ chức có khả năng hướng đạo tâm linh.

Như trên chỉ là vài ý kiến, vi góc nhìn, mục đích chỉ là góp phần nhỏ bé vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội phồn vinh theo phương châm của Nhà nước đã đề ra.

Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo số 5 (6/2005)

---o0o---

Vi tính: Nguyên Trang. Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/02/2024(Xem: 2341)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
19/12/2023(Xem: 4769)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
13/12/2023(Xem: 10866)
Hành Thiền, một nếp sống lành mạnh trong sáng, một phương pháp giáo dục hướng thượng (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
13/12/2023(Xem: 10125)
Đức Phật của Chúng Ta (Sách pdf của HT Thích Minh Châu)
09/06/2023(Xem: 2154)
Bộ phim Phi Thuyền Serenity (2005) với thể loại khoa học viễn tưởng đã giới thiệu một hình ảnh tên là Miranda, nơi các vấn đề của nhân loại được giải quyết thông quan khoa học công nghệ. Tham lam, giận dữ, si mê (tam độc), phiền não bởi buồn bã, lo lắng và tuyệt vọng - rõ ràng là trùng lặp với một số kiết sử cổ điển của Phật giáo (Skt., Pali: samyojana)
19/05/2023(Xem: 3458)
Tôi đã rất ấn tượng bởi một số chủ đề trùng lặp mà tôi gặp phải từ một số tác giả rất khác nhau. Cụ thể tôi đã thưởng ngoạn tác phẩm “Sapiens: Lược Sử Loài Người” (קיצור תולדות האנושות‎, Ḳitsur toldot ha-enoshut) của Tác giả, Thiền giả, Giáo sư Khoa Lịch sử tại Đại học Hebrew Jerusalem, Cư sĩ Yuval Noah Harari, một tác phẩm nói bao quát về lịch sử tiến hóa của loài người từ thời cổ xưa trong thời kỳ đồ đá cho đến thế kỷ XXI, tập trung vào loài "Người tinh khôn" (Homo sapiens). Được ghi chép lại với khuôn khổ được cung cấp bởi các ngành khoa học tự nhiên, đặc biệt là sinh học tiến hóa.
03/05/2023(Xem: 7694)
Khi Phật giáo (PG) du nhập vào Trung Hoa (TH) lần đầu tiên từ Ấn-độ và Trung Á thì những TH theo PG có khuynh hướng coi tôn giáo này là một phần hay một phái của Đạo Giáo Hoàng Lão, một hình thức Đạo Giáo bắt nguồn từ kinh sách và pháp thực hành được coi là của Hoàng Đế và Lão Tử. Những người khác chấp nhận ít hơn tôn giáo “ngoại lai” xâm nhập từ các xứ Tây Phương “man rợ” này PG là xa lạ và là một sự thách thức nguy hiểm cho trật tự xã hội và đạo đức TH, Trong mấy thế kỷ, hai thái độ này tạo thành cái nôi mà ở trong đó sự hiểu biết PG của người TH thành kính, trong khi các nhà
21/04/2023(Xem: 8771)
Thượng Tọa Thích Trí Siêu từ Pháp Quốc sẽ giảng pháp tại Úc Châu vào tháng 4 năm 2023 -- Thượng Tọa Thích Trí Siêu sinh năm 1962 tại Sài Gòn. Theo cha mẹ tỵ nạn qua Pháp năm 1975. Năm 1985 nhập chúng tu học tại Tự Viện Linh-Sơn, tỉnh Joinville-le-Pont, Paris. Năm 1987 thọ cụ túc giới với Hòa Thượng Thích Huyền-Vi. Tuy xuất thân từ Đại Thừa, nhưng Thầy đã không ngần ngại du phương tham vấn và tu học với nhiều truyền thống khác như : Nguyên Thủy, Đại Thừa, Kim Cang Thừa Tây Tạng.
20/04/2023(Xem: 9838)
Học đạo quý vô tâm Làm, nghĩ, nói không lầm Sáng trong và lặng lẽ Giản dị mới uyên thâm
12/04/2023(Xem: 3727)
Tôi muốn chia sẻ về mối quan hệ tôn giáo và xã hội hiện đại. Vì bản tính tự nhiên, mỗi cá nhân đều có sự cảm nhận về tự ngã. Từ đó, mỗi cá nhân đều trải qua các hiện tượng mà họ nhận thức được bằng cảm giác thống khổ, cảm xúc vui sướng hay yên tĩnh. Đây là sự thật, không cần phải trình bày tỉ mỉ nữa. Động vật cũng thế. Vì bản tính tự nhiên, tất cả chúng ta đều muốn đạt được an lạc hạnh phúc, không muốn thống khổ và bất hạnh. Ta khỏi cần phải chứng minh điều này. Trên cơ sở này, chúng ta đàm luận về quyền của mọi người được hưởng cuộc sống an lạc hạnh phúc, quyền vượt qua mọi thống khổ.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567