Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Từ sự suy vong của Phật giáo Ấn Độ, nghĩ về văn hóa Việt Nam.

09/04/201312:48(Xem: 4133)
Từ sự suy vong của Phật giáo Ấn Độ, nghĩ về văn hóa Việt Nam.

TỪ SỰ SUY VONG CỦA PHẬT GIÁO Ở ẤN ĐỘ,

NGHĨ VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VIỆT NAM

Nhất Thanh

---o0o---

… Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ mười hai đã phá hoại, san bằng những thánh tích và giết sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật giáo Ấn Độ không đơn thuần suy vong bởi những phá hoại ấy mà do chính những người vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật…

Phật giáo ví như những bó mạ được gieo trên mảnh ruộng Ấn Độ. Những cây mạ non được nhổ đi cấy trên nhiều mảnh ruộng khác và đã tạo ra rất nhiều đồng lúa trĩu hạt, thế mà trên mãnh ruộng gốc kia, mạ lại chẳng cho được hạt nào. Nghĩ như thế cũng có phần hời hợt, bởi vì kỳ thực nhân sinh quan Phật giáo đã ăn sâu vào đời sống, nếp ăn nếp nghĩ của người Ấn Độ đến mức khiến cho người vội vàng khó nhận ra được nó. Người ta gọi đó là thứ văn hóa chiều sâu (deep colture), còn sự phát triển trên bề mặt (surface development) của Phật giáo Ấn Độ đến nay gần như tuyệt diệt. Những người chủ của các đồng lúa trĩu hạt kia (như người Nhật Bản, Trung Hoa, Thái Lan, Sri Lanka, Myanmar, Tây Tạng…) và cả những người mới nhân giống trên mảnh đất mầu mỡ của họ (như các nước Âu Mỹ) đang đem những hạt giống Phật giáo về gieo lại trên mảnh ruộng Ấn Độ. Nghĩa cử đó có thể là biểu hiện của lòng nhớ nguồn nhớ cội, cũng có thể vì người ta hiểu rằng, trên xứ sở tâm linh kia, xứ sở có một nền văn hóa lâu đời nhất thế giới, có những con sông dài nhất thế giới, có những vĩ nhân lớn nhất thế giới, cội nguồn của mọi tôn giáo triết học, chắc chắn hạt giống Phật giáo sẽ lại ươm mầm mạnh mẽ nếu người ta biết chắt lọc, phân định, không để chúng lẫn lộn với những hạt giống khác, và không để những thứ cỏ dại làm ảnh hưởng đến hạt giống hiền hòa kia.

Trước khi tôi đi Ấn Độ, một người bạn đã bảo tôi rằng: “Đi Ấn Độ mà làm gì! Phật giáo chẳng còn gì ở đất nước ấy cả”. Nhưng khi thong thả chu du các vùng Nam-Bắc Ấn, tôi chợt nhận ra rằng vẫn chưa có một định nghĩa chính xác về Ấn Độ, bởi vì Ấn Độ là một đất nước có nhiều tầng văn hóa trong một không gian và thời gian. Nếu bạn thử dạo chơi vào một buổi chiều ở thành cổ Ba La Nại (Vanares) hay Calcutta, bạn sẽ cảm thấy vô cùng thú vị, khi trên cùng một đường phố dọc bờ sông Hằng (Ganga), những ngôi thành cổ bên cạnh những tòa cao ốc cực kỳ hiện đại, trong khi bên dưới vẫn còn những người sống một đời sống cây cỏ như cách đây mấy ngàn năm. Trên đường còn nguyên vẹn những đường ray xe điện với những chuyến tàu ngang dọc có thời thuộc địa Anh, trong khi dưới lòng đất là cả một hệ thống metro hiện đại chằng chịt. Những gã nhà giàu bụng bự bóp còi xe inh ỏi chở những cô gái mang sắc phục Hồi giáo phủ voan đen kín mặt; những đạo sĩ Hindu tay khoát nước sông Hằng hướng về phía mặt trời cầu nguyện; những chàng trai đạo Sikh tóc dài bới cao bởi một chiếc khăn; những chú bò đi nghênh ngang trên đường phố đông người; những chàng Tây ba-lô lội vào các hàng quán mua vải lụa Kasia dệt bằng máy dệt thô sơ thời trung cổ; những người kéo xe tay, chiếc xe chri có hai cần và hai chiếc bánh to hơn bánh xe bò; và cả những giáo sĩ đạo Kỳ na (Jainism) lõa lồ ngang nhiên trên đường phố… Tất cả đều ở trong cùng một không gian, một thời gian … Ấn Độ.

Với những thứ người ta nhìn thấy được, đúng là Phật giáo không còn ở Ấn Độ, ngoài Tứ động tâm (bốn thánh tích Phật giáo quan trọng) và những hang động vùng Nam Ấn. Nhưng ngắm nhìn một cách kỹ lưỡng hơn, ta thấy Phật giáo đã ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống của người dân Ấn Độ. Vào thế kỷ thứ ba trước Tây lịch, có một vị vua tên A Dục (Akosa) đã kính ngưỡng Phật giáo và sắc ban những đạo luật quan trọng. Rất nhiều ảnh hưởng của Phật giáo qua vị vua này vãn còn hiện diện, như việc hết sức hạn chế không phá hoại cây rừng, không bắn giết chim thú, thiết lập những bồn nước uống cho người qua đường dọc các thành phố… Ngày nay, giữa thủ đô Delhi vẫn còn một mảng rừng nguyên sinh, và người ta tôn trọng cây cối đến nỗi trên một đoạn đường cao tốc vẫn còn những cây cổ thụ chắn ngang gtiưa đường mà không bị đốn phá, chim thú vẫn sống xen lẫn với người, khách bộ hành không có tiền dù đi khắp thành thành thị thôn quê vẫn không sợ khát. Đó là nói về văn hóa vật thể, còn văn hóa phi vật thể của Phật giáo trong đời sống người dân Ấn Độ thì rất sâu đậm như: thái độ trước cái chết, tình hiền hòa hỷ xả, niềm tin sâu sắc vào đời sống tâm linh, xem thường vật chất, thích ăn chay, kiêng rượu thịt…, tất cả hòa quyện vào với văn hóa Hindu, khiến chúng ta khó lòng nhận ra màu sắc Phật giáo. Bên cạnh đó, những bữa cơm thường ngày của người dân Ấn cũng chua dưới bảng hiệu một câu Vegand Nonveg (chay và không chay). Thức ăn chay hầu hết dành cho dân bản xứ, thức ăn mặn dành cho du khách. Điều ngạc nhiên nhất của tôi là khi đi vào bất kỳ quán ăn nào ở Ấn Độ cũng thấy có sẵn đồ chay.

Người ta nói Phật giáo mất dấu ở Ấn Độ là do người Hồi giáo, từ thế kỷ thứ tám đến thế kỷ thứ mười hai đã phá hoại, san bằng những thánh tích và giết sạch những tu sĩ Phật giáo. Nhưng với người viết bài này, Phật giáo không phải do suy vong ở Ấn Độ bởi những người phá hoại Phật giáo, mà do chính những người vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật.

Đạo Hindu được xem như là quốc giáo của Ấn Độ, có truyền thống từ mấy nghìn năm, trước cả khi Đức Phật ra đời. Khi còn là một thái tử, Đức Thế Tôn cũng từng được học Tứ Phệ-đà, thánh điển của Bà La Môn. Một số quan niệm của Phệ-đà (Veda) và Áo Nghĩa Thư (Upanisad) vẫn còn dấu ấn trong kinh điển Phật giáo. Sau khi Đức Thế Tôn thành đạo và giáo hóa ở Ấn Độ, người Ấn, đặc biệt là người theo Bà La Môn đã xem Đức Phật như một vị thần trong tín ngưỡng của họ. Và người ta vẫn hàng ngày thờ lạy Đức Phật như thờ lạy một vị thần linh. Trong khi quan niệm của Bà La Môn là hữu ngã, thế giới này do Brama sáng tạo ra, thì Đức Phật lại chủ trưong vô ngã, vạn pháp duyên sinh. Thế rồi người ta chắc lọc hết những tinh ba của văn hóa Phật giáo - ngoại trừ quan niệm về Ngã - đem vào văn hóa truyền thống của họ, nhất là hình thức bên ngoài, dần dần được Hindu hóa. Ngay trong những thánh tích Phật giáo quan trọng như Tứ động tâm, người ta dựng cả một đền thờ Hindu phía trước, họ đem cả Linga vào đặt trước điện Phật, rồi hàng ngày, bao nhiêu người lũ lượt vào lạy lục cầu nguyện, và thờ Phật theo quan niệm Hindu.

Văn hóa có sức mạnh vô cùng to lớn, nhất là khi văn h��a được duy trì bằng phương cách bảo thủ thì không có sức mạnh nào có thể phá hủy được. Những thánh tích Phật giáo bị Hồi giáo phá hủy có thể xây dựng lại được, nhưng văn hóa Phật giáo đã được Hindu hóa rồi thì khó nhận ra.

Từ văn hóa Phật giáo Ấn Độ, liên hệ đến văn hóa Phật giáo Việt Nam, xem ra, với những gì người ta thấy được, Phật giáo Việt Nam cũng là một trong những nước Phật giáo mạnh nhất thế giới.

Ở Việt Nam hiện tại có đa số dân là Phật tử hoạc tự nhận mình là Phật tử, theo đạo Phật, khoảng 35 nghìn tu sĩ, gần 15 nghìn chùa chiền có mặt khắp phố cùng quê. Dân tộc Việt Nam nói có tới 4.000 năm văn hiến, nhưng những gì còn được ghi lại thực chất chỉ hơn 2.000 năm. Và ngót khoảng thời gian ấy là có sự hiện diện của Phật giáo. Nếu không có nền văn hóa Phật giáo ăn sâu vào tâm hồn người dân Việt, dân tộc Việt Nam hẳn đã bị Nho hóa một cách cứng nhắc bởi 1.000 năm Bắc thụôc rồi. Thậm chí nếu không có văn hóa Phật giáo với khả năng dung hòa và uyển chuyển, bản đồ Việt Nam cũng có thể đã thuộc về phương Bắc. Nói như thế không phải là quá đáng, bởi vì chúng ta bị họ đô hộ, chúng ta dùng ngôn ngữ văn tự của họ, sống theo nhân sinh quan của họ. Nhưng có nhiều cuộc đại thắng phương Bắc của dân tộc ta là do chính những triều đại, những ông vua Phật giáo, hoặc những ông vua trị quốc dưới sự cố vấn của các nhà sư Phật giáo làm nên. Điều ấy là lịch sử hiển nhiên không cần bàn cãi. Thế thì việc bảo tồn, phát huy văn hóa Phật giáo là việc làm quan trọng để duy trì và phát triển văn hóa dân tộc, sự tồn sinh của dân tộc. Sự bảo tồn và phát huy ấy phải nằm trong một chiến lược lâu dài, cả vĩ mô lẫn vi mô, bằng ý thức của chính những người lãnh đạo và khắp nhân dân.

Với văn hóa Phật giáo Việt Nam hiện đại, nếu nhìn từ sự suy vong của Phật giáo Ấn Độ, hẳn có nhiều điều để chúng ta suy ngẫm. Chúng ta tự hào là một nước Phật giáo mạnh, nhưng thực chất nó đang mạnh trên bề mặt, còn chiều sâu văn hóa đã dần cạn đi bởi rất nhiều lý do chủ quan và khách quan. Nếu không khôi phục và phát huy chiều sâu văn hóa thì Phật giáo Việt Nam rồi cũng sẽ suy vong bởi chính những người đang thờ lạy hoặc cổ xúy Phật giáo. Đứng về mặt văn hóa vật thể mà đại biểu là kiến trúc và các thánh tích Phật giáo, nếu chỉ so sánh với Ấn Độ thôi, chúng ta cũng chỉ là một cành cây trụi lá giữa đồng hoang so với mảng rừng trù phú ở Ấn Độ. Ngoài Tứ động tâm được xem là di sản văn hóa lớn của nhân loại, Ấn Độ còn có vô số những di chỉ quan trọng khắp vùng Nam Ấn như Đại tháp Sanchi, quần thể hang động Phật giáo giáo ở Aurangabad (như Ajanta, Ellora), Hyderabad, Mumbai, Puné, Nagajruna v.v… Đó là những kỳ quan thế giới được tạo dựng trên hai ngàn năm, trải qua nhiều thế hệ, bảo lưu vô số những công trình hội họa, điêu khắc và đặc biệt là linh khí hội tụ từ lịch đại Tổ sư Phật giáo. Hàng ngày, có hàng triệu lượt du khách từ khắp mọi nơi trên thế giới đến chiêm bái, cầu nguyện và tham quan du lịch. Du lịch Ấn Độ là du lịch tâm linh. Hành hương chính là hồi hương về những miền đất thánh của tâm hồn. và điều làm tôi ngạc nhiên nhất là những du khách đến tham quan những di tích Phật giáo Ấn Độ nhiều nhất là những người đến từ một cường quốc kinh tế thế giới: Nhật Bản. Đất nước Nhật như chiếc thuyền con giữa đại dương, họ hiểu hơn ai hết khi một chiếc thuyền bị nghiêng một bên thì nó sẽ bị chìm. Nên một mặt họ phát triển kinh tế, một mặt họ tạo điều kiện cho dân đi du lịch tâm linh khắp thế giới, hấp thụ tinh ba của nhân loại về làm giàu cho văn hóa của họ. Chính Suzuki, một học giả người Nhật nổi tiếng thế giới đã từng nói; Xã hội giống như một chiếc ghế ba chân, nếu cứ kéo dài cái chân ghế kinh tế và khoa học kỹ thuật trong khi hai chân ghế đạo đức tâm linh và thuần phong mỹ tục ngày càng ngắn lại thì chiếc ghế sẽ mất thăng bằng, sẽ ngã đổ. Đó là những bài học quý báu trên chiến lược phát triển văn hóa dân tộc. Ở Việt Nam, những kiến trúc Phật giáo hàng ngàn năm còn lại chỉ là một vài, một phần do binh lửa chiến tranh, một phần do chính con người phá hoại. Ngày nay người ta cũng có ý thức bảo tồn, nhưng không hoàn toàn vì mục đích Phật giáo. Hàng ngày có hàng triệu người Việt Nam đến các chùa lễ Phật, nhưng được bao nhiêu người lạy Phật theo tinh thần Phật giáo? Sách báo thời đại thông tin lan tràn, nhưng những gì viết về văn hóa Phật giáo hoặc đạo đức tâm linh chỉ như muối bỏ biển. Đó là chưa nói đến sự tấn công từ nhiều mặt, sự tiếp nhận văn hóa phương Tây một cách thiếu chọn lọc đang làm băng hoại văn hóa bản địa, héo úa tình thương, bào mòn tính nhân bản. Để bảo tồn và phát huy văn hóa Phật giáo, người viết xin góp vài ý kiến nhỏ nhoi:

- Đối với những di chỉ Phật giáo, hãy dành cho nó một vị trí khang trang, xứng với tầm vóc của nó, tạo một không khí du lịch tâm linh rộng rãi.

- Khơi dậy truyền thống dân tộc, niềm tự hào dân tộc bằng chính trí tuệ, tình yêu và tâm hồn người Việt.

- Tổ chức các đoàn thể sinh hoạt văn hóa trên cơ sở giáo lý Phật giáo, giúp thanh thiếu niên có môi trường sinh hoạt, vui chơi giải trí lành mạnh.

- Đăng tải trên phương tiện truyền thông đại chúng những tác phẩm, những bài khảo cứu, bài viết có nội dung hướng về đạo hiếu nguồn ân, tránh xa những văn hóa dục lạc, đồi trụy.

- Bồi dưỡng nhân tài, dành mọi ưu tiên cho những con người và tổ chức có khả năng hướng đạo tâm linh.

Như trên chỉ là vài ý kiến, vi góc nhìn, mục đích chỉ là góp phần nhỏ bé vào công cuộc bảo tồn và phát huy truyền thống tốt đẹp vốn có của dân tộc, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội phồn vinh theo phương châm của Nhà nước đã đề ra.

Nguồn: Văn Hóa Phật Giáo số 5 (6/2005)

---o0o---

Vi tính: Nguyên Trang. Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
26/06/2021(Xem: 8144)
LỜI ĐẦU SÁCH Cứ mỗi năm từ rằm tháng tư đến rằm tháng bảy âm lịch là mùa An Cư Kiết Hạ của chư Tăng mà Đức Phật cũng như chư Tổ đã chế ra từ ngàn xưa nhằm sách tấn cho nhau trên bước đường tu học, cũng như thực hành giới pháp; nên đâu đâu chư Tăng cũng đều y giáo phụng hành. Ngày nay ở Hải ngoại mặc dầu Phật sự quá đa đoan, nhưng chư Tăng cũng đã thực hành được lời di huấn đó. Riêng tại Tây Đức, chư Tăng Ni đã thực hiện lời dạy của Đức Thế Tôn liên tiếp trong 3 năm liền (1984, 1985 và 1986). Đó là thành quả mà chư Tăng đã tranh thủ với mọi khó khăn hiện có mới thực hiện được. Đây là một công đức đáng tán dương và đáng làm gương cho kẻ hậu học. Vì giới luật là mạng mạch của Phật pháp. Giới luật không được tuân giữ thì việc truyền thừa giáo pháp của Đức Như Lai không được phát triển theo chánh pháp nữa.
07/05/2021(Xem: 16489)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12470)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
03/10/2020(Xem: 19919)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
29/04/2020(Xem: 4432)
Xưa nay trên lịch sử loài người, chưa có nhà cách mạng nào đại tài như Đức Phật Thích Ca. Ngài đã thành công vẻ vang trên đường cách mạng bản thân, cách mạng xã hội và cách mạng tư tưởng để giải phóng con người thoát ách nô lệ của Bà La Môn thống trị. Đường lối và phương thức cách mạng của Ngài không giống những nhà cách mạng khác, có thể nói đi trước thời đại và cũng là tiên phong cho những phong trào cách mạng về sau. Sự cách mạng của Ngài khởi điểm tại Ấn Độ, khởi đầu bằng sự thành đạo nơi gốc Bồ đề, sau bốn mươi chín ngày nhập định, tìm ra lối thoát và lẽ sống cho chúng sanh.
23/04/2020(Xem: 4310)
Nhiều người trong chúng ta đang vật lộn với phản ứng của chúng ta, trước những khổ đau của quốc gia dân tộc và thế giới. Chúng ta có thể làm gì khi đối mặt với nghèo đói, bệnh tật, chiến tranh, bất công và tàn phá môi trường? Theo dòng thời sự, thật dễ dàng để tuyệt vọng, trở nên hoài nghi hoặc tê liệt. Hướng về phía nó là cách tiếp cận của Phật giáo đối với sự đau khổ chung này. Chúng ta hiểu rằng, hạnh phúc và thực sự ý nghĩa sẽ đến, thông qua xu hướng khổ đau. Chúng ta vượt qua tuyệt vọng của chính mình, bằng cách giúp đỡ người khác vượt qua mọi chướng nạn khổ đau.
21/04/2020(Xem: 5029)
Hôm thứ Hai, ngày 20/4/2020, Mạng lưới Phật giáo Dấn thân Quốc tế (The International Network of Engaged Buddhists, INEB) đã tuyên bố công khai trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng toàn cầu do đại dịch Virusconrona gây ra, kêu gọi tất cả mọi người, các quốc gia vùng lãnh thổ và chính phủ, bất kể nền tảng tôn giáo hoặc cá biệt văn hóa chủng tộc hoặc liên kết chính trị, nhận ra tính chất liên kết và “Toàn cầu hóa và sự phụ thuộc lẫn nhau”. Nhân loại là cơ sở cho một phản ứng toàn cầu thống nhất đối với cuộc khủng hoảng, đã gây nguy hiểm đến hàng triệu người trong các cộng đồng dễ bị tổn thương trên toàn thế giới.
15/04/2020(Xem: 4260)
Chỉ riêng khoa học và công nghệ không thể dừng và tiếp tục chiến tranh, phân biệt chủng tộc, hủy họa môi trường. Ảo tưởng về sự tách biệt thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng toàn cầu và sự tham lam ích kỷ, sợ hãi và thiếu hiểu biết cần phải được chuyển hóa, bằng việc thực hiện “thực tế tự nhiên” của sự phụ thuộc lẫn nhau, sự soi sáng của trí tuệ và từ bi tâm. Mỗi người trong chúng ta phải tìm ra cách riêng để đóng cho điều này bằng trí tuệ và thực hành, năng lực độc đáo của riêng mình.
08/04/2020(Xem: 4240)
Do có nguy cơ bị đại dịch Virus Corona tấn công, các cơ sở tự viện Phật giáo tại các quốc gia trên thế giới đều đóng cửa (bế môn), để cho công chúng tuân thủ các biện pháp giãn cách toàn xã hội trong thời gian nhất định nào đó. Chư tôn đức giáo thọ Phật giáo đang đưa ra những giáo lý đạo Phật, nhằm nhắc nhở cộng đồng Phật tử từ xa về các yếu tố chính của sự thực hành.
05/04/2020(Xem: 11589)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567