Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

X. Tóm Tắt

11/12/201017:07(Xem: 8475)
X. Tóm Tắt

J. KRISHNAMURTI
CÁ THỂ VÀ XÃ HỘI
INDIVIDUAL & SOCIETY
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Tháng 7-2010

X- TÓM TẮT

 

B

ây giờ, một con người mà thấy chính xác điều gì đang xảy ra trong thế giới, và thực sự muốn tìm ra liệu Thượng đế, sự thật, là một thực tế hay chỉ là một sáng chế ranh mãnh của vị giáo sĩ? Rốt cuộc, bạn và tôi là kết quả của tập thể, đúng chứ? Và phải có những con người cá thể đã hoàn toàn phá vỡ khỏi tập thể, khỏi xã hội, được tự do khỏi tình trạng bị quy định, không phải trong những tầng hay trong những mảnh, nhưng tổng thể, bởi vì chỉ những cá thể như thế mới có thể tìm được sự thật hay Thượng đế là gì – không phải cái người của truyền thống, không phải cái người mà lặp lại những từ ngữ, rung một cái chuông, trích dẫn kinh Gita, và đi đến đền chùa mỗi ngày. Chính là những người vô-tôn giáo mới làm điều đó. Nhưng con người mà thực sự muốn tìm ra chuyển động lạ thường của sống này là gì, không những phải hiểu rõ qui trình của tình trạng bị quy định riêng của anh ấy, nhưng còn có thể vượt khỏi nó. Bởi vì cái trí có thể tìm ra sự thật là gì chỉ khi nào nó được tự do khỏi tất cả tình trạng bị quy định, không phải khi nó chỉ lặp lại những từ ngữ nào đó hay trích dẫn những quyển sách thiêng liêng. Một cái trí như thế không là tự do.

Vì vậy, làm tự do cái trí là điều khó khăn cực kỳ trong thế giới này. Người chính trị và người tạm gọi là tôn giáo nói về tự do – đó là một trong những khẩu hiệu của họ – nhưng họ chăm sóc kỹ lưỡng để cho bạn không được tự do bởi vì, khoảnh khắc bạn được tự do, chắc chắn bạn trở thành một nguy hiểm cho xã hội, cho tôn giáo có tổ chức, đối với tất cả những sự việc suy đồi tồn tại quanh bạn. Chỉ cái trí tự do sẽ tìm ra sự thật là gì, chỉ cái trí tự do có thể là sáng tạo; và trong một văn hóa thuộc loại này, rất cần thiết rằng sự quan trọng phải được trao cho, không phải tuân theo một khuôn mẫu, một giáo điều, hay một truyền thống, nhưng cho phép cái trí được sáng tạo. Nhưng cái trí có thể sáng tạo chỉ khi nào nó được tự do khỏi tình trạng bị quy định của nó, và tự do như thế không dễ dàng hiện diện, bạn phải làm việc gian nan cho nó. Bạn làm việc cực nhọc cho sống hàng ngày của bạn, bạn trải qua nhiều năm tháng với toàn công việc của bị sai bảo loanh quanh để kiếm sống, nuốt trọn những sỉ nhục, những lo lắng, những lăng mạ, những nịnh nọt. Nhưng làm việc để cho cái trí được tự do còn gian nan hơn nhiều; nó yêu cầu sự thấu triệt vĩ đại, sự hiểu rõ lạ thường, một nhận biết bao la trong đó cái trí nhận biết tất cả những cản trở của nó, những bủa vây của nó, những chuyển động của tự-lừa dối, những ý tưởng kỳ quặc của nó, những ảo tưởng của nó, những hoang đường của nó. Ngay khi cái trí được tự do, nó có thể bắt đầu tìm hiểu, thâm nhập, nhưng một cái trí tìm hiểu khi không có tự do chẳng có ý nghĩa gì cả. Bạn hiểu chứ? Cái trí mà muốn thâm nhập sự thật, Thượng đế, vẻ đẹp và chiều sâu lạ thường này của sống, sự phong phú của tình yêu, trước hết phải được tự do. Nó không có ý nghĩa gì đối với cái trí mà bị định hình, bị quy định, bị nhốt trong những biên giới của truyền thống, khi nói, ‘Tôi đang tìm kiếm sự thật, Thượng đế.’ Một cái trí như thế giống như một con lừa bị cột tại một cái cọc: nó không thể đi xa hơn chiều dài của sợi dây cột.

Vì vậy, nếu chúng ta muốn tìm ra trạng thái lạ thường mà vượt khỏi những thất thường của cái trí – thực sự trải nghiệm nó, sống cùng nó, và biết ý nghĩa trọn vẹn của nó – chắc chắn phải có tự do, và tự do hàm ý làm việc chăm chỉ vượt mức hơn hầu hết chúng ta sẵn lòng thực hiện. Chúng ta thích bị dẫn dắt hơn khám phá, nhưng người ta không thể bị dẫn dắt đến sự thật. Làm ơn hãy hiểu rõ sự kiện rất đơn giản này. Không tước hiệu, không hệ thống yoga, không tổ chức tôn giáo, không giáo điều hay niềm tin nào có thể dẫn dắt bạn đến sự khám phá sự thật. Chỉ cái trí tự do có thể khám phá. Điều đó rõ ràng, đúng chứ? Bạn không thể khám phá sự thật của bất kỳ điều gì bằng cách chỉ được chỉ bảo nó là gì bởi vì lúc đó sự khám phá không là sự khám phá của bạn. Nếu bạn được chỉ bảo hạnh phúc là gì, đó là hạnh phúc hay sao?

Muốn tìm ra sống này là gì, muốn biết toàn nội dung của nó và không chỉ những tầng hời hợt mà chúng ta gọi là sống, muốn nhận biết được sự hân hoan của nó, những chiều sâu lạ thường của nó, sự mênh mang và vẻ đẹp của nó, mà gồm cả sự bẩn thỉu, sự cực khổ, sự đấu tranh, sự thoái hóa của nó – muốn hiểu rõ ý nghĩa của tất cả điều đó, chắc chắn cái trí của bạn phải được tự do. Nếu điều đó được hiểu rõ, vậy thì sự liên hệ của bạn với tôi, và sự liên hệ của tôi với bạn, không bị đặt nền tảng trên uy quyền. Tôi không thể dẫn dắt bạn đến sự thật, và bất kỳ người nào cũng không thể; bạn phải khám phá nó mỗi khoảnh khắc của ngày khi bạn đang sống. Nó phải được tìm ra khi bạn đang dạo bộ ngoài đường phố hay đang ngồi trong xe buýt, khi bạn đang cãi cọ với người vợ hay người chồng, khi bạn đang ngồi một mình hay nhìn ngắm những vì sao. Khi bạn biết thiền định đúng đắn là gì, vậy thì bạn sẽ tìm được sự thật là gì; nhưng một cái trí được chuẩn bị trước, được tạm gọi là có giáo dục, bị quy định để tin tưởng hay không-tin tưởng, tự gọi chính nó là một người Ấn độ, một người Thiên chúa giáo, một người cộng sản, một người Phật giáo – một cái trí như thế sẽ không bao giờ khám phá được sự thật là gì, mặc dù nó có lẽ tìm kiếm sự thật được một ngàn năm. Vì vậy, điều quan trọng là cái trí phải được tự do. Và, liệu cái trí có thể được tự do?

Các bạn hiểu rõ nghi vấn chứ, thưa các bạn? Chỉ cái trí được tự do mới có thể khám phá sự thật là gì – khám phá, không phải được chỉ bảo sự thật là gì. Sự diễn tả không là sự thật. Bạn có lẽ diễn tả điều gì đó trong ngôn ngữ mĩ miều nhất, đặt nó trong những từ ngữ mê mẩn và tinh thần nhất, nhưng từ ngữ không là sự thật. Khi bạn bị đói, sự diễn tả về thức ăn không cho bạn no bụng. Nhưng hầu hết chúng ta lại bị thỏa mãn bởi sự diễn tả về sự thật, và sự diễn tả, biểu tượng, đã thay thế vị trí của sự thật. Muốn khám phá liệu có một sự thật hay không, chúng ta phải có thể thấy sự thật như sự thật, giả dối như giả dối, và không phải chờ đợi để được dạy bảo giống như nhiều trẻ em không-chín chắn.

Vì vậy, muốn tìm được sự thật là gì, trước hết cái trí phải được tự do, và được tự do là công việc gian nan lạ thường, gian nan hơn tất cả những luyện tập yoga. Những luyện tập như thế chỉ quy định cái trí của bạn, và chỉ cái trí tự do mới có thể sáng tạo. Một cái trí bị quy định có lẽ sáng chế; nó có lẽ nghĩ ra những ý tưởng mới, những cụm từ mới, những đồ dùng cải tiến; nó có lẽ xây dựng một đập nước, lập kế hoạch một xã hội mới, và mọi chuyện như thế; nhưng đó không là sáng tạo. Sáng tạo là điều gì đó còn hơn cả khả năng thâu lượm một phương pháp kỹ thuật. Do bởi vì trong hầu hết chúng ta không có cái sự việc lạ thường được gọi là sáng tạonày nên chúng ta mới nông cạn, trống rỗng, nghèo khó. Và chỉ cái trí được tự do mới có thể sáng tạo.

Vì vậy, vấn đề của chúng ta là: Làm thế nào cái trí được trả lại tự do? Và, liệu có thể trả lại tự do cho cái trí – không phải trong những tầng hay những mảnh, không phải trong những đốm nhỏ đó đây, nhưng tổng thể, xuyên suốt, cả tầng ý thức bên trong cũng như tầng ý thức bên ngoài? Hay, liệu cái trí có khi nào bị quy định, có khi nào bị định hình? Bạn phải tự-tìm ra cho chính bạn và không chờ đợi tôi giải thích cho bạn liệu cái trí có thể được tự do. Liệu cái trí chỉ suy nghĩvề tự do, như một tù nhân suy nghĩ, và thế là phải chịu số phận bi đát không bao giờ được tự do nhưng mãi mãi bị giam giữ bên trong ngục tù của tình trạng bị quy định của nó?

Bạn hiểu rõ nghi vấn chứ? Liệu cái trí có thể được tuyệt đối tự do, hay chính bản chất của cái trí là phải bị quy định? Nếu chính chất lượng cơ bản của cái trí là bị giới hạn, vậy thì chẳng cần đặt vấn đề tìm ra sự thật là gì; vậy thì bạn có thể tiếp tục lặp lại rằng có Thượng đế hay không có Thượng đế, rằng đây là điều tốt lành và kia là điều xấu xa, tất cả việc đó đều ở trong khuôn mẫu của một văn hóa được cho sẵn. Nhưng, để tìm được sự thật của vấn đề, bạn phải tự-thâm nhập vào liệu cái trí có thể thực sự được tự do. Tôi nói nó có thể – mà không phải để cho bạn chấp nhận hay phủ nhận. Nó có lẽ đúng thực, hay nó có lẽ là quan điểm của tôi, tưởng tượng của tôi, ảo tưởng của tôi. Và bạn không thể đặt nền tảng sống của bạn vào sự khám phá của người khác, hay vào ảo tưởng của anh ấy, tưởng tượng của anh ấy, hay chỉ vào một ý tưởng. Bạn phải tìm ra.

Madras, nói chuyện trước công chúng

Ngày 12 tháng 12 năm 1956

Tuyển tập những Lời giảng

__________________________________

Bắt đầu dịch ngày 28 tháng 5 năm 2010

Dịch xong: 14:40 ngày 08-6-2010

In nháp: ngày 10-6-2010

Kết thúc sửa nháp, in sách: ngày 27-6-2010

Đã dịch:

1 – Sổ tay của Krishnamurti
Krishnamurti’s Notebook
2 – Ghi chép của Krishnamurti
Krishnamurti’s Journal
3 – Krishnamurti độc thoại
Krishnamurti to Himself
4 – Ngẫm nghĩ cùng Krishnamurti
Daily Meditation with Krishnamurti
5 – Thiền định 1969
Meditation 1969
6 – Thư gửi trường học
Letters to Schools
7 – Nói chuyện cuối cùng 1985 tại Saanen
Last Talks at Saanen 1985
8 – Nghĩ về những việc này
Think on these things
9 – Tương lai là ngay lúc này
The Future is now
10 – Bàn về Thượng đế
On God
11– Bàn về liên hệ
On Relationship
12 – Bàn về giáo dục
On Education
13 – Bàn về sống và chết
On living and dying
14 – Bàn về tình yêu và sự cô độc [2-2009]
On Love and Loneliness
15 – Sự thức dậy của thông minh Tập I/II [2009 ]
The Awakening of Intelligence
16 – Bàn về xung đột [4-2009]
On Conflict
17 – Bàn về sợ hãi
On Fear
18 – Vượt khỏi bạo lực [6-2009]
Beyond Violence
19 – Bàn về học hành và hiểu biết [8-2009]
On Learning and Knowledge
20 – Sự thức dậy của thông minh Tập II/II [12-2009 ]
The Awakening of Intelligence
21 – Nghi vấn không đáp án [2009]
The Impossible Question
22 – Tự do đầu tiên và cuối cùng [4-2010]
The First and Last Freedom
23 – Bàn về cách kiếm sống đúng đắn [5-2010]
On Right Livelihood
24– Bàn về thiên nhiên và môi trường [5-2010]
On Nature and The Environment
25– Tương lai của nhân loại [5-2010]
The Future of Humanity
26– Đoạn kết của thời gian
The Ending of Time [5-2010]
27– Sống chết của Krishnamurti – 2009
The Life and Death of Krishnamurti
A Biography by Mary Lutyens [Đã dịch xong]
28–Trách nhiệm với xã hội [6-2010]
Social Responsibility
29– Cá thể và xã hội [7-2010]
Individual & society

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 138285)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 18841)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
09/01/2017(Xem: 10571)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 11809)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 12345)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 14555)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 6053)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 28843)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15662)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 13424)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]