Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

V. Những Vấn Đề Của Cởi Bỏ Tình Trạng Bị Quy Định

11/12/201016:59(Xem: 9194)
V. Những Vấn Đề Của Cởi Bỏ Tình Trạng Bị Quy Định

J. KRISHNAMURTI
CÁ THỂ VÀ XÃ HỘI
INDIVIDUAL & SOCIETY
Lời dịch: ÔNG KHÔNG Tháng 7-2010

V- NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA CỞI BỎ TÌNH TRẠNG BỊ QUY ĐỊNH

Nhân loại, con người, đã làm mọi thứ để tạo ra một thay đổi cơ bản; và tuy nhiên, con người đã không thay đổi gì cả. Chúng ta là điều gì chúng ta đã là suốt hàng triệu năm!

V

ì vậy, câu hỏi của chúng ta là: Làm thế nào một bộ não cũng như cái trí, đó là, tổng thể con người – thuộc thân thể, thuộc hệ thần kinh – có thể hoàn toàn thay đổi? Làm thế nào con người có thể hoàn toàn thay đổi? Một thay đổi như thế là cần thiết – người ta thấy điều đó. Và, nếu không có một thay đổi, sẽ luôn luôn có chiến tranh – một quốc gia chống lại một quốc gia khác, một dân tộc chống lại một dân tộc khác, tất cả những tàn bạo khủng khiếp của chiến tranh, quốc gia của bạn chống lại một quốc gia khác, những khác biệt ngôn ngữ, những khác biệt kinh tế, những khác biệt xã hội, những khác biệt luân lý, và trận chiến liên tục, phía bên ngoài và phía bên trong – phải có một thay đổi. Bây giờ, làm thế nào người ta sẽ tạo ra nó?

Làm ơn, hãy thấy sự phức tạp lạ thường của câu hỏi này, điều gì được bao hàm trong nó. Con người đã thử quá nhiều cách – đi khỏi đến những tu viện, từ bỏ thế giới và trở thành vị khất sĩ, vào sâu trong những cánh rừng và tham thiền, nhịn ăn uống, trở thành một người độc thân, đã thực hiện mọi thứ mà anh ấy có thể tưởng tượng ra, đã thôi miên anh ấy, đã ép buộc anh ấy, đã tìm hiểu, đã phân tích ý thức của anh ấy, tầng bên ngoài và tầng bên trong – anh ấy đã làm mọi thứ để tạo ra một cách mạng cơ bản bên trong chính anh ấy. Và thế là anh ấy đã nhẫn tâm trong chính anh ấy, không những như một cá thể, nhưng còn như một con người – hai thực thể này hoàn toàn khác biệt. Cá thể là một thực thể địa phương: một người Hỏa giáo, một người Phật giáo, một người Hồi giáo, và vân vân. Cá thể bị quy định bởi môi trường sống. Nhưng con người vượt khỏi điều đó, anh ấy quan tâm đến con người tổng thể – không phải về quốc gia của anh ấy, những khác biệt ngôn ngữ, những chiến tranh và cãi cọ nhỏ nhen của anh ấy, những thần thánh bé tí tầm thường của anh ấy, và vân vân – anh ấy quan tâm đến trạng thái tổng thể của con người, xung đột của anh ấy, tuyệt vọng của anh ấy. Khi bạn thấy cái tổng thể, vậy thì bạn có thể thấy cái riêng biệt; nhưng cái riêng biệt không thể hiểu rõ cái tổng thể. Vì vậy, đối với một cá thể liên tục tìm hiểu nội tâm, sự tìm hiểu không có ý nghĩa gì cả bởi vì anh ấy vẫn còn quan tâm đến khuôn mẫu của sự tồn tại riêng của anh ấy, bị quy định bởi xã hội – trong đó được bao gồm tôn giáo và mọi chuyện của nó. Trái lại con người – như một con người đã sống được hai triệu năm – đã chịu đựng đau khổ, đã suy nghĩ, đã tìm hiểu . . . dù ở Nga, ở Trung quốc, ở Mỹ, hay ở đây.

Và nhân loại, con người, đã làm mọi thứ để tạo ra một thay đổi cơ bản; và tuy nhiên, tại cơ bản, con người đã không thay đổi gì cả. Chúng ta là cái gì chúng ta đã là suốt hai triệu năm! Con thú rất mạnh mẽ trong chúng ta. Con thú cùng tất cả tham lam, ganh tị, tức giận, tàn nhẫn vẫn còn tồn tại sâu thẳm trong những quả tim và những cái trí của chúng ta. Và chúng ta đã, qua tôn giáo, qua văn hóa, qua văn minh, chúng ta đã đánh bóng phía bên ngoài; chúng ta có những cư xử tốt lành hơn – có lẽ một ít người chúng ta có những cư xử tốt lành hơn. Chúng ta biết nhiều hơn một chút. Thuộc công nghệ, chúng ta đã tiến bộ rất xa. Chúng ta có thể bàn luận triết lý, văn chương phương Tây hay phương Đông; chúng ta có thể đi khắp thế giới. Nhưng phía bên trong, sâu thẳm, những gốc rễ đã bám chặt rất sâu.

Thấy tất cả điều này, làm thế nào người ta – bạn như một con người và tôi như một con người – làm thế nào chúng ta sẽ thay đổi? Chắc chắn không phải qua những giọt nước mắt, không phải qua trí năng, không phải qua tuân theo một học thuyết không tưởng nào đó, không phải qua sự chuyên chế phía bên ngoài, cũng không phải qua sự chuyên chế tự-áp đặt. Thế là, người ta loại bỏ tất cả điều này, và tôi hy vọng bạn cũng đã loại bỏ tất cả điều này. Bạn hiểu chứ? Xóa sạch quốc tịch của người ta; xóa sạch những thần thánh của người ta, truyền thống riêng của người ta, những niềm tin của người ta; xóa sạch tất cả những sự việc mà người ta đã được nuôi dưỡng để tin tưởng – xóa sạch tất cả điều này là một việc rất khó khăn khi thực hiện. Thuộc trí năng, có lẽ chúng ta đồng ý, nhưng sâu thẳm nơi tầng ý thức bên trong có sự khẳng định vào sự quan trọng của quá khứ, mà chúng ta bám vào.

Lúc này bạn biết vấn đề . . .

Bombay, nói chuyện trước công chúng lần thứ hai

Ngày 16 tháng 2 năm 1966

Tuyển tập những Lời giảng

Tư tưởng, mà là sản phẩm của ngày hôm qua, chỉ có thể phản ứng dựa vào ngày hôm qua, vào thời gian.

V

ì vậy, vấn đề là thế này: Tư tưởng bị quy định, bị cố định trong một khuôn mẫu. Tư tưởng phản ứng đến thách thức, mà luôn luôn mới mẻ, tùy theo quá khứ, vì vậy đang bổ sung cái mới mẻ. Tư tưởng, mà là sản phẩm của ngày hôm qua, chỉ có thể phản ứng dựa vào ngày hôm qua, vào thời gian. Khi bạn hỏi, ‘Làm thế nào tôi có thể phá vỡ khỏi sự độc đoán của tình trạng bị quy định?’ bạn đang đưa ra một câu hỏi sai lầm. Tư tưởng không bao giờ có thể được tự do. Tư tưởng chỉ có thể biết sự tiếp tục, không phải sự tự do. Tự do hiện diện khi tư tưởng không-hiện diện. Có tự do chỉ khi nào qui trình của sự tiếp tục kết thúc. Tư tưởng cho sự tiếp tục. Vì vậy, tư tưởng phải nhận biết được tình trạng bị quy định riêng của nó và không cố gắng trở thành cái gì đó. Trở thành cho sự tiếp tục đến tư tưởng và vì vậy không có tự do khỏi tình trạng bị quy định. Khi tư tưởng đang hoạt động, tích cực hay tiêu cực, vậy thì nó đang bị quy định, đang sản sinh sự tiếp tục được bổ sung.

Bombay, nói chuyện trước công chúng lần thứ nhất

Ngày 18 tháng 1 năm 1948

Tuyển tập những Lời giảng

Dường như đối với tôi, sự khó khăn ở trong hiểu rõ sự kiện rằng bất kỳ hình thức của thay đổi nào trong một cái trí bị quy định chỉ mang lại một bị quy định khác, không phải một thay đổi.

N

gười ta có thể thấy bất kỳ sự thay đổi có ý thức nào đều không là thay đổi gì cả. Qui trình cố ý của tạo ra sự tự-hoàn thiện, vun đắp cố ý của một khuôn mẫu hay một hình thức hành động đặc biệt, không tạo ra một thay đổi gì cả, bởi vì nó chỉ là một chiếu rọi của sự ham muốn riêng của người ta, của nền quá khứ riêng của người ta, như một phản ứng. Tuy nhiên, hầu hết chúng ta đều quan tâm đến vấn đề thay đổi này bởi vì chúng ta đang dò dẫm, chúng ta bị hoang mang. Và những người chúng ta đã có được sự nghiêm túc phải tràn đầy sinh lực để tìm hiểu nghi vấn của làm thế nào sáng tạo một thay đổi trong chính chúng ta. Đối với tôi, dường như sự khó khăn ở trong hiểu rõ sự kiện rằng bất kỳ hình thức của thay đổi nào trong một cái trí bị quy định chỉ mang lại một bị quy định khác, không phải một thay đổi. Nếu tôi, như một người Ấn giáo hay một người Thiên chúa giáo hay bất kỳ người nào bạn muốn, cố gắng thay đổi bên trong khuôn mẫu đó, nó không là thay đổi gì cả; có lẽ nó chỉ là một thay đổi dường như thích nghi hơn, tiện lợi hơn và tốt đẹp hơn, nhưng tại cơ bản, nó không là một thay đổi. Tôi nghĩ một trong những khó khăn lớn nhất mà chúng ta phải đối diện là chúng ta nghĩ chúng ta có thể thay đổi bên trong một khuôn mẫu; trái lại, chắc chắn, đối với một cái trí bị quy định bởi xã hội, bởi bất kỳ hình thức nào của văn hóa, để tạo ra một thay đổi có ý thức bên trong khuôn mẫu vẫn còn là một qui trình của bị quy định. Nếu điều đó rất rõ ràng, vậy thì tôi nghĩ sự tìm hiểu của chúng ta để tìm ra thay đổi là gì, nó có thể tạo ra một thay đổi cơ bản trong chính chúng ta như thế nào, trở thành rất lý thú, một chủ đề sinh động . . .

London, nói chuyện trước công chúng lần thứ tư

Ngày 24 tháng 6 năm 1955

Tuyển tập những Lời giảng

Khi một cái trí bị quy định tìm kiếm một đáp án cho một vấn đề, nó đang đi loanh quanh trong những vòng tròn; sự tìm kiếm của nó không có ý nghĩa.

V

ậy là, câu hỏi là làm thế nào để giải quyết, làm thế nào để tiếp cận vấn đề. Nếu bạn tiếp cận bất kỳ vấn đề nào bằng ý định tìm ra một đáp án, vậy thì đáp án sẽ tạo ra nhiều vấn đề hơn – mà quá rõ ràng. Điều gì quan trọng là thâm nhập vào vấn đề và bắt đầu hiểu rõ nó; và bạn có thể thực hiện được điều đó chỉ khi nào bạn không chỉ trích, chống đối, hay xua đuổi nó. Cái trí không thể giải quyết được vấn đề chừng nào nó còn đang chỉ trích, đang biện hộ, hay đang so sánh. Sự khó khăn không ở trong vấn đề, nhưng trong cái trí mà tiếp cận vấn đề bằng một thái độ chỉ trích, biện hộ, hay so sánh. Thế là, trước hết, bạn phải hiểu rõ làm thế nào cái trí của bạn bị quy định bởi xã hội, bởi vô vàn những ảnh hưởng đang tồn tại quanh bạn. Bạn gọi chính bạn là một người Ấn giáo, một người Thiên chúa giáo, một người Hồi giáo, hay bất kỳ người nào bạn muốn, mà có nghĩa rằng cái trí của bạn bị quy định; và chính là cái trí bị quy định này mới tạo ra vấn đề. Khi một cái trí bị quy định tìm kiếm một đáp án cho một vấn đề, nó đang đi loanh quanh trong những vòng tròn; sự tìm kiếm của nó không có ý nghĩa. Và cái trí của bạn bị quy định bởi vì bạn ganh tị, bởi vì bạn so sánh, nhận xét, đánh giá, bởi vì bạn bị trói buộc trong những niềm tin, những giáo điều. Tình trạng bị quy định đó là điều gì tạo ra những vấn đề.

Bombay, nói chuyện trước công chúng lần thứ ba

Ngày 11 tháng 3 năm 1956

Tuyển tập những Lời giảng

Tự do khỏi tình trạng bị quy định hiện diện chỉ khi nào chúng ta thấy sự cần thiết của một cái trí được cởi bỏ. Nhưng chúng ta đã không bao giờ suy nghĩ về nó, chúng ta đã không bao giờ tìm hiểu . . .

H

ầu hết chúng ta đều quan tâm, không phải đến sự cởi bỏ tình trạng bị quy định của cái trí, nhưng đến việc quy định nó tốt đẹp hơn, làm cho nó cao cả hơn, làm cho nó giảm đi cái này và nhiều hơn cái kia. Chúng ta không bao giờ tìm hiểu khả năng tự-cởi bỏ hoàn toàn tình trạng bị quy định của cái trí . . . Tự do khỏi tình trạng bị quy định hiện diện chỉ khi nào chúng ta thấy sự cần thiết của một cái trí được cởi bỏ. Nhưng chúng ta đã không bao giờ suy nghĩ về nó, chúng ta đã không bao giờ tìm hiểu; chúng ta đã chỉ chấp nhận uy quyền, và có nguyên những nhóm người mà nói rằng cái trí không thể được cởi bỏ và vì vậy phải bị quy định tốt đẹp hơn.

Lúc này, tôi đang gợi ý rằng cái trí có thểđược cởi bỏ. Bạn không cần phải chấp nhận điều gì tôi nói bởi vì việc đó sẽ quá dốt nát, nhưng nếu người ta thực sự quan tâm, người ta có thể tự-tìm ra cho chính mình liệu cái trí có thể được cởi bỏ. Chắc chắn, khả năng có thể được hiện diện chỉ khi nào người ta nhận biết được rằng người ta bị quy định và không chấp nhận tình trạng bị quy định đó như cái gì đó cao quý, một thành phần xứng đáng của văn hóa xã hội. Cái trí được cởi bỏ là cái trí tôn giáo đúng thực duy nhất, và chỉ cái trí tôn giáo mới có thể sáng tạo một cách mạng cơ bản, mà là cốt lõi, và không là một cách mạng kinh tế, cũng không là cách mạng của những người cộng sản hay những người xã hội. Muốn tìm ra điều gì là sự thật, cái trí phải nhận biết được chính nó; nó phải có hiểu rõ về chính mình, mà có nghĩa tỉnh táo đến tất cả những thúc giục và những ép buộc có-ý thức hay không-ý thức. Nhưng một cái trí mà là cặn bã của những truyền thống, của những giá trị, của tạm gọi là giáo dục và văn hóa, một cái trí như thế không thể tìm ra điều gì là sự thật. Nó có lẽ nói rằng nó tin tưởng Thượng đế, nhưng Thượng đế của nó không là thực tế, bởi vì nó chỉ là sự chiếu rọi của tình trạng bị quy định riêng của nó.

Sydney, nói chuyện trước công chúng lần thứ nhất

Ngày 9 tháng 11 năm 1955

Tuyển tập những Lời giảng



Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 136486)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 18582)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
09/01/2017(Xem: 10254)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thườngcũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
08/01/2017(Xem: 11509)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
07/01/2017(Xem: 12032)
Phật pháp tại thế gian, chẳng thể lìa thế gian mà có. Thế nên biết, người muốn ngộ được lẽ thật của muôn pháp, cũng phải từ muôn pháp mà ngộ, muốn nhận rõ Bản tâm chân thường cũng phải từ chiếc thân tứ đại vô thường mà nhận.
27/12/2016(Xem: 14305)
Lịch sử là bài học kinh nghiệm luôn luôn có giá trị đối với mọi tư duy, nhận thức và hành hoạt trong đời sống của con người. Không có lịch sử con người sẽ không bao giờ lớn khôn, vì sao? Vì không có lịch sử thì không có sự trải nghiệm. Không có sự trải nghiệm thì không có kinh nghiệm để lớn khôn.
25/12/2016(Xem: 6007)
Theo các nhà nghiên cứu Phật học thì Đức Phật Thích ca đã dùng tiếng Magadhi để thuyết Pháp. Tiếng Magadhi là ngôn ngữ thuộc xứ Magadha ở vùng trung lưu sông Ganges (Hằng hà). Rất nhiều sắc lệnh của Đại đế Asoka được khắc trên các tảng đá lớn và các cây cột lớn được tìm thấy có thể cho chúng ta biết một phần nào về ngôn ngữ mà Đức Phật đã nói như thế nào.
22/12/2016(Xem: 28284)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15405)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
16/07/2016(Xem: 12766)
Nếu trang phục truyền thống của một dân tộc hay quốc gia biểu đạt bản sắc văn hóa về y phục của dân tộc hay quốc gia đó, thì pháp phục Phật giáo thể hiện bản sắc đặc thù, khác hẳn với và vượt lên trên các quốc phục và thường phục của người đời, dù ở phạm vi dân tộc hay quốc gia. Lễ phục tôn giáo nói chung và pháp phục Phật giáo nói riêng thể hiện tình trạng tôn giáo và xã hội (social and religious status), được sử dụng trong hai hình thức, mặc trong sinh hoạt thường nhật và mặc trong các nghi lễ tôn giáo, nói chung các dịp đặc biệt.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]