Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo và vận mệnh

26/02/201222:02(Xem: 9868)
Phật giáo và vận mệnh
lotus2PHẬT GIÁO VÀ VẬN MỆNH
Đại sư Tinh Vân
Phước Tâm dịch

Trong đời của mỗi một con người chúng ta, việc đáng quan tâm nhất, hẳn là chính mình; mà trong vấn đề chính mình, quan trọng hơn cả chính là vận mệnh, số phận hay số kiếp. Về cách nhìn vận mệnh, có người cảm thấy rằng bất cứ việc gì của mình cũng không bằng người ta, vận mệnh lận đận éo le, liền giận trời trách người; có người thì tin rằng tất cả họa phước giàu nghèo đều là do sự sắp đặt của số phận, vì vậy khi gặp phải những khó khăn thì chỉ biết cam chịu số phận; có người thì lại bằnglòng với số phận, vì thế họ không còn lo sợ gì cả, đối với những khó khăn khốn đốn trong cuộc sống, thì lại an bần thủ tiết.

Trong lữ trình của sinh mệnh, có rất nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến vận mệnh của chúng ta, như sự kỳ vọng của phụ mẫu sư trưởng, hay thái độ cừu địch thân hữu. Việc vận dụngtiền tài vật chất, cố nhiên có thể chi phối sự phát triển tiền đồ- con đường phía trước của chúng ta. Một câu nói. Một ý nghĩ#. Tất cả đều có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời của chúng ta. Phật giáo cho rằng sự li hợp thành bại của hết thảy việc người trên thế gian này, đều không tách rời nguyên tắc “Nhân duyên quả báo”, kệ nhân quả ba đời nói rằng: “Muốn biết nhân kiếp trước, hãy xem những gì mình đang chịu đời này; muốn biết quả kiếp sau, hãy xem những việc làm của mình ở đời này”. Do vậy, có thể suy luận: Tất cả cảnh giới thuận nghịch mà đời này gặp phải,là do những tạo tác của hành vi quá khứ mà hình thành, đây chính là quả báo của đời này; nhưng mà, nhất ngôn nhất hành của đời này, lại là quyết định vận mệnh vị lai của mình. Cho nên, vận mệnh của chúng ta tùy theo nghiệp lực thay đổi trong từng phút giây, đồng thời không bị quản chế bởi một chủ tể đặc định nào, thống trị, chi phối vận mệnh của con người vẫn là chính mình.

Những nhân tố ảnh hưởng đến vận mệnh được quy kết như sau:

Thứ nhất, tập quán: Phật giáo cho rằng phiền não đã là thứ khó đoạn tuyệt, nhưng lại có một thứ càng khó khử trừ hơn đó là tập khí (1). Tập quán (thói quen) vốn là mô thức cố định trong đời sống của chúng ta, có tốt có xấu, nhưng mà sau khi trải qua một thời gian dài, thói quen trở thành tự nhiên, thì sẽ biến thành tập khí thâm căn cố đế, đời đời kiếp kiếp khó mà tiêu trừ. Vì vậy, đối với sự dưỡng thành thói quen, cần phải cẩn thận. Thói quen xấu gồm như hút thuốc, hít độc (tiêm chích ma túy), nát rượu, v.v… những thói quen khônglành mạnh này có khả năng tàn phá, làm tổn hại đến thân thể, sức khỏe; hay như nói dối, lạm tình, kiên tham (bủn xỉn, tham lam), v.v…, cũng có khả năng làm bại hoại đến đạo đức của chính mình. Thói quen tốt gồm như chế độ làm việc và nghỉ ngơi bình thường, ăn uống, vận động, tinh thần lạc quan, v.v…, có thể kéo dài tuổi thọ; hay như cần cù, gọn gàng sạch sẽ, sốt sắng nhiệt tình, v.v…, có thể tự lợi lợi người. Phật giáo khởi xướng tín đồ nuôi dưỡng thói quen đọc tụng kinh (2), từ đó có thể nương tựa Phật pháp dẫn dắt qua khỏi bến mê; cũng như dưỡng thành thói quen niệm Phật (3), thì có thể nương Phật hiệu khơi gợi Phật tính trong tâm mà vãng sinh Tịnh độ, siêu việt sinh tử. Tóm lại, một người mặc dù có điều kiện ưu việt được trời ưu ái, mà thói quen không tốt, cũng khó có vận mệnh đại phú đại quý. Thói quen tốt cũng là một trợ duyên, có thể giúp chúng ta biến nguy thành an, thuận buồn xuôi gió.

Thứ hai, mê tín: Nhiều người thích coi số đoán mệnh, mục đích không ngoài hy vọng mọi việc của mình được như ý muốn, gặp hung hóa kiết, gặp dữ hóalành. Có người khăng khăng giữ quan niệm chọn bạn trăm năm phải phối hợp Bát tự (4), có người thì chú trọng việc cất nhà sản xuất phải xem phong thủy, lại có người thậm chí mọi việc cầu thần coi bói, không cần phán đoán, nhận định theo lý tính. Hành vi mê tính, bắt nguồn từ sự thiếu vắng niềm tin, có lúc ngược lại, do vậy mà đánh mất đi những cơ hội tốt hoặc bóp méo sự thật, vô tình chôn vùi hạnh phúc của một đời. Phật giáo cho rằng ngày ngày đều là những ngày tốt đẹp, giờ giờ đều là những giờ tốt đẹp, chỉ cần phù hợp chính lý nhân quả, thì không có gì đáng cữ kiêng.

Thứ ba, tình ái: Gọi là “Ái bất trọng bất sinh Sa bà” (tình yêu vắng mặt chấp thủ, tất sẽ không sinh ở chốn Sa-bà), con người tất nhiên thì là có tình cảm, nhưng có một số người cứvì quá chấp vào tình yêu, để rồi đánh mất lý trí, thậm chí có người vì tình ái mà tự tạo ra những hố sâu bi tình không thể nào bù đắp lại. Do vì, tình yêu không được xử lý một cách thỏa đáng, thường hay nảy sinh những phiền muộn khổ đau, cho nên Phật giáo khuyên dạy con người nên lấytrí hóa giải tình yêu, lấy từ làm nên tình yêu, có thể thăng hoa tình yêu thành từ bi, như thế mới có thể không tự làm khổ mình, cũng không làm phiền lòng người khác.

Thứ tư, quyền lực: Sự chi phối của quyềnlực là do quá cưng chiều ngã chấp (5) và ngã mạn (6), khiến cho con người dưỡng thành ý thức giai cấp tôn ti, quý hèn. Có người tự ti quá độ, cam tâm chịu khuất phục quyền lực, không cầu tự chủ, một đời thấp hèn, ti tiện; có người thì danh lợi lòng dạ hiểm độc, cầu mong quyền lực, không từ một thủ đoạn nào, đánh mất lý tính. Mà Phật giáo thì cho rằng chúng sinh bình đẳng, mọi người đều có Phật tính, bần phú quý tiện thật sự là ở chỗ hữu- vô của đạo đức; chúng ta nên có sự nhận biết và đảm đương trách nhiệm “Ta là Phật” (7), tin tưởng sự kiến lập nắm bắt vận mệnh ngay chính bản thân mình.

Thứ năm, nghiệp lực: Phật giáo cho rằng nghiệp lực (8) là sức mạnh lớn nhất có khả năng khống chế vận mệnh. Nghiệp lực là các hành động thân, khẩu và ý của mỗi một người, nó có sứcảnh hưởng đến đời sống vị lai. Nhiều người than thở thời vận của mình không tốt, hoặc oán trách việc người không có lợi cho bản thân, không nghĩ rằng phàm bất cứ việc gì cũng đều do nghiệp lực tạo thành, thành công cố nhiên là ở mình, nhưng việc phối hợp hoàn cảnh bên ngoài, càng không thể xem nhẹ; những thất bại, sai trái tuy đã qua, nhưng cũng nên nhìn lại để phản quan tự tỉnh: Phước ít đức bạc, sao có thể đạt được việc tốt được? Phật giáo chủ trương “Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo”, lúc bình thường nếu có thể quảng kết thiện duyên, sám hối nghiệp chướng, thì chắc chắn có thể hóa giải ác duyên túc thế, khai sáng tiền đồ tốt đẹp trong tương lai.

Tậpquán, mê tín, tình ái, quyền lực và nghiệp lực, làm việc thiện làm việcác đều quyết định ở ý niệm của chúng ta, sửa đổi vận mệnh cũng cần bắt đầu tịnh hóa từ tâm niệm của chúng ta. Nay dùng các phương pháp cụ thể thay đổi vận mệnh được quy nạp như sau:

Thứ nhất, thay đổi quan niệm: Quan niệm ảnh hưởng đến phán đoán giá trị của một con người, quyết định thú hướng thiện ác của hành vi. Phật giáo chú trọng sự dưỡng thành chính tri chínhkiến. Gọi là “Chính tri chính kiến” chính là những kiến giải và quan niệm chính xác. Phật giáo cho rằng chính kiến cơ bản của đời người (nhânsinh) có bốn: Chính kiến có nhân có quả, chính kiến có nghiệp có báo, chính kiến có thánh có phàm, chính kiến có thiện có ác. Đã có nhân sinh quan chính xác, có niềm tin sâu sắc vào nhân quả, rõ biết duyên khởi, thì tự nhiên sẽ không khởi ác tạo nghiệp, oán trời trách người.

Thứ hai, thay đổi hành vi: Tục ngữ nói: “Muốn thu hoạch như thế nào, thì trước gieo trồng xuống những hạt giống như thế đó”. Nghiệp nhân mà từ hành vi của mỗi một người tạo tác, một khi nhân duyên tế hội gặp gỡ thì tự nhiên sẽ sản sinh quả báo, cho nên chúng ta hy vọng tiền đồ tương lai tốt đẹp, cuộc sống phú lạc (giàu sangvà vui vẻ), thì cần phải bắt đầu từ hành vi của chính mình, để mong chuyển họa thành phước, bởi vì tất cả hạnh và bất hạnh, đều có thể thao túng, khống chế trong tầm tay của mình.

Thứ ba, quảng kết thiện duyên: Vũ trụ vạn pháp, từ nhân đến quả, trung gian còn phải cần có lực lượng hữu duyên, thì quả mới có thể sinh thành. Một đời của con người, có người thì thông minh trí tuệ, năng lực rất tốt, nhưng trái lại người đó không nhất định sẽ được gặt hái nhiều thành quả mỹ mãn; có người tư chất bình thường, không có gì nổi bật, nhưng trái lại phàm gặp việc gì cũng suông sẽ thuận lợi, đâu đâu cũng được sự tương trợ của người hữu duyên. Vì vậy, chúng ta cần chú trọng đến “Quảng kết thiện duyên”. Kết duyên là một việc làm tốt đẹp nhất trên thế gian này, đặc biệt sinh mệnh không chỉ một đời, người có khả năng lấy Phật pháp kết duyên, thì đời đời kiếpkiếp đều có thể đi theo các bậc thiện trí thức học tập, tự nhiên vận mệnh thông đạt, ứng nhân xử thế vô ngại.

Thứ tư, trì giới thủ pháp: Giới (9) là căn bản của tất cả thiện pháp, giới có thể phòng phi chỉ ác, gọi là “Họaphước vô môn, duy nhân tự chiêu”, hành thiện tất được thiện báo, hành ác tất gặp ác quả, người trì giới thì tuân theo giới luật (thủ pháp), trong hành vi sẽ không phạm vào nghiệp nhân bất hảo, tự nhiên sẽ không gây nên quả báo xấu. Vì vậy, kinh điển tỉ dụ: “Giới như lương sư, giới như quỹ đạo, giới như thành lũy, giới như túi nước, giới như ngọn đèn sáng, giới như bảo kiếm, giới như chuỗi ngọc, giới như thuyền bè”. Trì giới thủ pháp có thể ngăn chặn ác duyên, tự nhiên sẽ có tiền đồ sáng lạn, nhân sinh mỹ mãn.

Phật giáo đối với vận mệnh của một đời con người có cách nhìn tích cực lạc quan, chủ trương các pháp vô thường,duyên khởi tính không (10), vận mệnh xấu có thể dựa vào thiện duyên bồidưỡng tiến hành thay đổi, dù cho nghiệp chướng nặng nề, cũng có thể giảm nhẹ, gọi là trọng nghiệp khinh báo (11). Con người không nên buồn rầu với số mệnh không tốt của mình, mà cần cố gắng vượt lên, thay đổi vận rủi ấy; cho nên con người không thể phó thác cho trời đất hay mặc cho số mệnh, ủ rũ chán chường, để năm tháng luống qua một cách vô ích, cần có quyết đoán, dứt khoát thay đổi triệt để, tạo dựng nên vận mệnh của chính mình. Vì vậy, cho dù sống trong giàu sang thuận đạt, hoặc là nghèo nàn khổ ách, đều nên chính quán duyên khởi, hiểu rõ vận mệnh, thay đổi vận mệnh, từ đó lập nên vận mệnh mới, tốt đẹp hơn.

Trích dịch từ sách “Phật giáo & Thế tục”(佛教世俗) in trong bộ sách “Phật học giáo khoa thư” (佛學教科書) của Đại sư Tinh Vân (星雲), do NXB. Từ Thư Thượng Hải xuất bản, năm 2008, tr.7-10...

CHÚ THÍCH:

(1)Tập khí chỉ tư tưởng hoặc hành vi thường sinh khởi của chúng ta, huân tập lâu ngày thành chủng tử, tồn tại trong thức A-lại-da, tùy sinh tử luân hồi mà trình hiện trong thể sinh mệnh mới như hình theo bóng.

(2) Kinh là chỉ cho giáo pháp mà Phật-đà trình bày, kinh nói: “Nếu chỗ nào có kinh điển, tức chỗ đó có Phật”. Vì vậy bái kinh, tụng kinh, chép kinh, đọc kinh đều có công đức mở mang trí tuệ. Phật giáo coi trọng văn- tư- tu, nghĩa lý kinh Phật thâm áo, cần nghe nhiều huân tập, tư duy pháp nghĩa, đã có sở đắc, càng nên y lý thực hành trong đời sống, mới có thể được nhiều lợi ích chân chính.

(3) Thông thường mà nói, việc quyết định thú hướng vãng sinh có ba loại: Một, tùy trọng nghiệp đã tạo mà thọbáo; hai, tùy tập khí bình thường thọ báo; ba, tùy nhất niệm lúc lâm chung thọ báo. Kinh A-di-đà nói: “Nếu có người nghe nói đến Phật A-di-đà, chấp trì danh hiệu, ví như một ngày hoặc đến bảy ngày nhất tâm bất loạn, thì người đó lúc sắp lâm chung, Phật A-di-đà cùng chư thánh chúng hiện ngay trước mặt người ấy người lúc lâm chung tâm không điên đảo, tức được vãng sinh quốc độ Cực lạc Phật A-di-đà”. Người niệm Phật thuần thục, tùy thời có thể lấy Phật niệm thay cho tạp niệm, bất luận làtùy tập hay tùy niệm, đều có thể quyết định vãng sinh Tịnh độ.

(4) Bát tự = Tám chữ (giờ ngày tháng nămsinh viết theo Thiên can và Địa chi) là cách xem số mệnh của Trung Quốc. Người mê tín cho rằng giờ, ngày, tháng, năm con người được sinh rađều bị Thiên can Địa chi chi phối; mỗi hạng có hai chữ thay thế, bốn hạng thì có tám chữ, căn cứ tám chữ này, tức có thể suy đoán vận mệnh/sinh mệnh của một con người. Tục xưa lúc đính hôn, trước phải trao đổi Thiếp tám chữ, cũng gọi “Canh thiếp”, hoặc gọi đơn giản là “Bát tự”.

(5) Chính là chấp trước tự ngã tồn tại chân thật, rồi sinh khởi tâm luyến ái, tham thủ. Thể nguyên của chúng sinh là giả hợp của ngũ ấm. Nếu vọng chấp có sự tồn tại của cái tôi thựcthể chi phối ảnh hưởng, mà nảy sinh phân biệt vọng tưởng như “ngã” (tôi) và “ngã sở” (những cái của tôi), tức gọi là ngã chấp. Thành duy thức luận thuật ký ghi, phẩm loại phiền não chướng có rất nhiều, lấy ngãchấp làm gốc, sinh khởi các phiền não; nếu không chấp vào cái tôi, thì phiền não tự dưng biến mất.

(6) Chính là tâm kiêu mạn, tự cho mình tài giỏi hơn người khác, rồi sinh khởi tâm lý khinh thường người khác.

(7)Lời này có nguồn gốc từ công án Thiền tông. Thiền sư Linh Huấn hỏi Thiền sư Quy Tông: “Cái gì là Phật?” Quy Tông: “Nói với ông, ông cũng không tin”. “Ông chính là Phật”. Ý là bất kỳ người nào cũng đều có Phật tính, chỉ cần khẳng khái đảm nhận, thì đều có thể thành Phật làm Tổ. XemTinh Vân Thiền ngữ tứ: Bạn chính là Phật.

(8) Các hoạt động thân tâm như hành vi,ý chí, gọi là “Nghiệp”. Sức ảnh hưởng tiếp nối những việc làm sau đó của chúng ta gọi là “Nghiệp lực”. Phật giáo lấy tư tưởng của nghiệp dùngđể biểu đạt thiện ác của hành vi và mối quan hệ qua lại của khổ lạc nhân quả báo ứng, cho đến các nguyên lý luân hồi như kiếp trước, kiếp này và kiếp sau. Thông thường mà nói, nghiệp được chia làm ba nghiệp là thân, ngữ và ý, nếu tạo nghiệp thiện ác, thì sau đó chiêu cảm quả báo (dị thục) khổ lạc tương ứng. Do có nghiệp nhân, nên chiêu cảm nghiệp quả; nghiệp vô ký phi thiện phi ác thì không có năng lực chiêu quả. Nghiệp có nhiều chủng loại, y một đời chúng sinh thọ báo có thể phân làmDẫn nghiệp (lại gọi là tổng báo, chi phối nghiệp lực của chúng ta sinh ởnhân giới, súc sinh giới hoặc các giới khác) và Mãn nghiệp (còn gọi là biệt báo, nghiệp lực viên mãn của các căn chúng sinh, hình lượng, sắc lực, v.v…) Theo sự dị đồng thọ báo giữa chúng sinh với chúng sinh, có thể chia ra cộng nghiệp (khiến chúng sinh cảm được nghiệp quả báo chung,như sơn hà đại địa, bối cảnh gia đình,…tức sự tương đồng của hoàn cảnh bên ngoài) và bất cộng nghiệp (nghiệp báo bất đồng của chúng sinh ở trong hoàn cảnh giống nhau, như cùng sinh ra từ trong một gia đình, nhưng họa phước không giống nhau). Tùy sự nhanh chậm của thời gian thọ báo, nghiệp còn phân làm Thuận hiện nghiệp (tức hiện tại làm việc thì ngay hiện tại phải nhận quả báo), Thuận sinh nghiệp (tức đời này làm việc, đời sau nhận quả báo), và Thuận hậu nghiệp (đến sau đời thứ ba mớibắt đầu thọ báo)…

(9) Giới pháp Phật giáo bao hàm tất cả hành vi quy phạm thế gian, có các loại sau: Thông giới (các việc ác chớ làm, các việc thiện cần thực hành) và Biệt giới (giới luật được phân biệt chế định trong Tăng đoàn thất chúng, còn có thể chia làm tại gia giới và xuất gia giới); Chỉ trì giới (ngăn cấm điều ác) và Tác trì giới (hành thiện); Tính giới (các giới đối với những hành vi tội ác mà lập nên, như không giết mổ, không trộm cắp…) và Già giới (dù hành vi phi thiện phi ác, nhưng trái lại dễ dàng nảy sinh cơ hiềm/hiềm khích hoặc gợi ra giới pháp hành vi tội ác); Thanh văn giới (lấy tự luật- tự ràng buộc hạn chế làm giới pháp chính, như “Ngũ phần luật”) và Bồ-tát giới (lấy lợi tha làm giới pháp chính, nội dung hàm nhiếp luật nghi giới, nhiếp thiện pháp giới, nhiêu ích hữu tình giới); Giới tại gia (như ngũ giới, bát quan trai giới…) và xuất gia giới (như Tỳ-kheo giới, Sa-di giới…).

(10) Phật giáo chủ trương các pháp do nhân duyên sinh, các pháp cũng do nhân duyên mà diệt, vạn sự vạn vật đềulà duyên sinh mà tụ, duyên diệt thì tan, vì vậy không có tự tính, bản chất là không, cho nên nói duyên khởi tính không.

(11) Phật giáo cho rằng tội lỗi hay nghiệp chướng có sâu nặng, cũng có thể thông qua sám hối sửa đổi, nuôi trồng phước đức để giảm nhẹ. Tỉ như một nắm muối, mặn chát không thể nàonuốt được, nếu như dùng nước pha loãng đi, thì vị mặn chát ấy tự nhiên đổi sẽ thành nhạt loãng.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
24/04/2016(Xem: 35521)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
04/03/2016(Xem: 16837)
Trong thời gian làm việc tại Thư viện Thành hội Phật giáo đặt tại chùa Vĩnh Nghiêm, quận 3, tôi gặp được cuốn Tôn Giáo Học So Sánh của Pháp sư Thánh Nghiêm biên soạn. Do muốn tìm hiểu về các tôn giáo trên thế giới đã lâu mà vẫn chưa tìm ra tài liệu, nay gặp được cuốn sách này tôi rất toại ý.
04/03/2016(Xem: 13651)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
21/02/2016(Xem: 6735)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 13913)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 8231)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 7416)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 31231)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 15958)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 23697)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]