Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cư Sĩ Phật Tử Với Vấn Đề Cải Đạo

13/05/201321:00(Xem: 3263)
Cư Sĩ Phật Tử Với Vấn Đề Cải Đạo
namphattu_1
CƯ SĨ PHẬT TỬ VỚI VẤN ĐỀ CẢI ĐẠO
Đào Văn Bình

Thế giới ngày nay mà chúng ta gọi là “thời đại mới” đổi thay đến chóng mặt, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống trong đó có tôn giáo. Tuy không có “thánh chiến” được công khai tuyên bố, nhưng cạnh tranh để bành trướng, giành giật tín đồ, mua chuộc dưới mọi hình thức để cải đạo, kể cả bằng bạo lực đã diễn ra hàng ngày và gần như trên quy mô toàn cầu.

Điều này dễ hiểu bởi vì khi tín đồ bành trướng thì sức mạnh chính trị bành trướng. Khi sức mạnh chính trị bành trướng thì khống chế được chính quyền hoặc chiếm đoạt được chính quyền. Khi chiếm đoạt được chính quyền thì chính quyền là phương tiện mạnh nhất để áp đặt hoặc bành trướng hoặc cải đạo hàng loạt. Chính Đức Đạt Lai Lạt Ma cũng đã nói lên lời cảnh báo về kế hoạch cải đạo quy mô mà Á Châu là mảnh đất màu mỡ nhất để thi hành kế hoạch này. Đức Đạt Lai Lạt Ma gọi đó là “chiến tranh văn hóa”.

Trước tình hình đó hàng ngũ Tăng-Ni, một mình không đủ sức đảm đương mọi chuyện mà cần có sự trợ giúp của mọi tầng lớp Phật tử và cư sĩ tại gia, không ngoài mục đích gìn giữ tín đồ và sự trường tồn của đạo pháp và giữ gìn bản sắc dân tộc. Một dân tộc không có bản sắc chỉ là khối “ngoại kiều” tạp chủng sống trên cùng một đất nước. Khi đất nước không có bản sắc – tức không có một dòng chính văn hóa và tâm linh (mainstream) thì dân tộc khó đoàn kết. Khi đó lực lượng chính trị sẽ “vọng ngoại” để tìm chỗ dựa, nói khác đi đất nước sẽ bị ngoại bang khuynh loát.

Nói về cư sĩ tu tại gia, họ không phải ai xa lạ - trước hết họ là Phật tử - nhưng là một Phật tử không bình thường. Người cư sĩ Phật tử có những đặc điểm như sau:

-Người cư sĩ tại gia, ngoài việc tụng kinh niệm Phật, hành thiền như các Phật tử bình thường, họ còn có khả năng nghiên cứu kinh điển. Rất nhiều vị là các nhà học Phật uyên thâm có khả năng luận giải kinh điển, giảng dạy, hành lễ và thuyết pháp. Những đỉnh cao chói lọi của hàng cư sĩ trong quá khứ phải kể tới Vua A Dục của Ấn Độ, Lương Vũ Đế của Trung Hoa, Vua Lý Thái Tổ của Việt Nam. Và lịch sử Việt Nam cận đại phải ghi công các bậc cư sĩ lỗi lạc như Phạm Quỳnh, Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Lê Đình Thám, Nguyễn An Ninh, học giả Đoàn Trung Còn, Giáo Sư Nguyễn Đăng Thục mới đây có Tịnh Liên Nghiêm Xuân Hồng, Phạm Công Thiện, các dịch giả như Trúc Thiên, Phạm Kim Khánh và nhà soạn Từ Điện Phật Học Anh-Việt-Pali Thiện Phúc v.v…

-Dù không có khả năng nghiên cứu Phật học thâm sâu, một số cư sĩ do tu hành tinh tấn hoặc đáp ứng được nhu cầu thiết thực của đời sống đã quy tụ được một số đông Phật tử qua công tác hộ niệm, ủy lạo, thiện nguyện…từ đó góp phần quan trọng vào việc gìn giữ tín đồ và xoa dịu phần nào những khổ đau của xã hội mà không một nhà cầm quyền nào có thể chu toàn trách nhiệm. Trong và ngoài nước hiện nay hình thành rất nhiều nhóm cư sĩ Phật tử như thế này.

-Cư sĩ Phật tử có thể là các thương gia giàu có chẳng hạn như Ông Cấp Cô Độc năm xưa là đại phú thương. Khi các đại phú thương phát Bồ Đề Tâm thì họ có thể để lại những di sản rất lớn. Chẳng hạn như nhờ Ông Cấp Cô Độc dám trải vàng mua vườn thượng uyển của Thái Tử Kỳ Đà thỉnh Phật thuyết pháp mà ngày nay chúng ta mới có bộ Kinh A Di Đà. Hiện nay trong nước có rất nhiều đại phú thương phát Bồ Đề Tâm bằng cách bỏ ra cả triệu Mỹ Kim để sưu tầm ngọc quý sau đó tôn tạo tượng như: tượng Phật ngọc, tượng Phật Bà Quan Ấm và tượng Phật Hoàng Trần Nhân Tông. Chắc chắn những pho tượng này sẽ cùng trường tồn với dân tộc.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là những nghệ sĩ. Nếu là nghệ sĩ lớn, tác phẩm của họ có thể trở nên bất tử , lưu truyền rộng rãi trong dân chúng chẳng hạn như bài thơ Lửa Từ Bi của thi sĩ Vũ Hoàng Chương làm trong Pháp Nạn 1963 cách đây 50 năm. Hiện nay trong nước nhạc sĩ Trịnh Công Sơn được rất đông Phật tử ngưỡng mộ vì một số bài hát có tư tưởng Thiền. Còn nhạc sĩ Phạm Duy lại được ngưỡng mộ vì những bài Thiền Ca và Đạo Ca. Còn nhà thơ Phạm Thiên Thư được tôn vinh vì những bài thơ đượm mùi Thiền của ông trong thi tập nổi tiếng Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng. Chúng ta nên - nhớ đối với bậc tu hành giải thoát thì thi ca có khi chỉ là phiền não nhưng đối với quần chúng Phật tử thì thi ca, phim ảnh, giải trí lại là phương tiện truyền đạt hữu hiệu nhất. Chúng ta có thể nói mà không sợ sai lầm rằng chỉ cần nhìn vào số lượng thiền ca, Phật nhạc, đạo ca, phim ảnh, truyện Phật giáo được phổ biến trong quần chúng, chúng ta có thể nói đạo pháp thịnh hay suy.

-Người cư sĩ Phật tử có thể là quốc vương, hoàng hậu, thứ phi, công chúa, đại thần hoặc những vị nắm giữ những vai trò quan trọng trong chính phủ. Hầu hết các ngôi cổ tự của Việt Nam mà ngày nay đã trở thành di tích lịch sử đều do các vị này lập ra. Tôi có đọc một bài nghị luận trong nước nói rằng nếu Thiền Sư Vạn Hạnh và Thiền Sư Lý KhánhVân cho Lý Công Uẩn xuất gia thì bất quá Lý Công Uẩn chỉ trở thành môt danh tăng chứ không thể đưa dân tộc Đại Việt vào một thời kỳ huy hoàng như vậy. Do đó, trong bất kỳ thời đại nào, nếu lãnh đạo đất nước lại là những vị có lòng với Dân Tộc và Đạo Pháp thì chắc chắn Đạo Pháp sẽ hưng thịnh.

-Sau hết, cư sĩ có thể là các cơ quan truyền thông. Nếu họ có lòng, có trình độ thì truyền thông sẽ là phương tiện mạnh mẽ nhất để hộ pháp và hoằng pháp.

Hiện nay tại Âu Châu, Hoa Kỳ các tôn giáo cổ truyền đang suy thoái trầm trọng và có khả năng đất nước Hoa Kỳ và Âu Châu sẽ thay đổi diện mạo trong vài chục năm tới.

Theo www.youtube.com/watch?v=Rfx4glTU5JQmỗi năm có 20,000 người Hoa Kỳ và 70,000 người Pháp cải đạo sang Hồi Giáo. Theo www.independent.co.ukmỗi năm có 5000 người Anh cải đạo sang Hồi Giáo. Trước thực tế đó họ phải “mở một đường máu” sang Châu Á để để bù đắp lại số tín đồ đã mất trong khi Phi Châu và Châu Mỹ La Tinh đã bão hòa. Trong khi chúng ta ngồi đây thì từng đoàn gọi là “thiện nguyện”đang tiến sâu vào các vùng xa xôi của Mông Cổ, Miến Điện, Tích Lan, Tây Tạng, Tây Nguyên v.v... nói là để giúp đỡ nhưng thực chất là để dụ dỗ cải đạo ngay tại chỗ. Các vùng đồng bằng mà đời sống dân chúng còn khó khăn, các vùng cao nguyên, rừng núi hoang vu bao gồm nhiều sắc dân thiểu số là mảnh đất màu mỡ để thi hành kế hoạch này. Chỉ cần phái đoàn gọi là “thiện nguyện” đó tới phát quà, khám bệnh, phát thuốc và hứa hẹn một đời sống huy hoàng kiểu Mỹ thì cả một buôn làng có thể tân tòng theo đạo mới. Thủ đoạn dùng “chiếc bánh ở trên trời” luôn luôn thành công đối với tầng lớp nghèo khổ, túng quẫn. Họ cần bất cứ cái phao nào, dù là một cọng rơm để bám. Chúng ta không trách họ được. Họ là nạn nhân.

Tuy vấn đề cấp bách như thế nhưng trong hàng cư sĩ Phật tử tôi thấy không có nhiều vị quan tâm. Tôi nghĩ rằng đã đến lúc hàng cư sĩ Phật tử chúng ta phải có can đảm nhìn vào vấn đề này. Trong gia đình, chúng ta phải thẳng thắn giáo dục con cái về nạn cải đạo qua hôn nhân. Những Phật tử trên giường bệnh trước giờ phút lâm chung vì không có ni sư hộ niệm hoặc hộ niệm các chùa tính đắt quá đã bị cướp đi linh hồn. Những Phật tử túng thiếu cũng chỉ vì sự giúp đỡ nhỏ mà nỡ vứt đi đạo ông bà. Giới trẻ gia đình gốc Phật Giáo nhưng không am hiểu giáo lý, tham dự những cuộc vui chơi có mục đích “dụ đạo” cũng dễ dàng bỏ đạo. Con gái lấy chồng Đại Hàn tân tòng theo đạo mới, trở về nước cải đạo ngay ông bà cha mẹ mình. Người Việt tại Mỹ theo đạo Tin Lành du lịch Việt Nam, tới đền thờ Đức Trần Hưng Đạo họ không chịu bước vào vì họ không thờ ngẫu tượng. Trong nước đã có một số đề nghị chống lại sách lược cải đạo, nhưng hải ngoại thì chưa thấy. Tôi chưa hình dung được kế hoạch “phản cải đạo” phải bao gồm những bước như thế nào. Nhưng theo tôi có hai bước quan trọng:

- Thứ nhất: Bản thân chúng ta là một Phật tử phải ý thức được giá trị cao cả của Đạo Phật. Đạo Phật đang từng bước trở thành lương tri của nhân loại cho nên dù hoàn cảnh nào đi nữa cũng phải giữ tâm Bồ Đề cho kiên cố, tức không bao giờ bỏ đạo. Để minh chứng cho sự cao thượng của Phật Giáo tôi xin ghi ra đây lời nói chân tình của một Phật tử người Mỹ tên John vừa được được Phật tử Huyền Lam dịch ra Việt ngữ và đưa lên mạng lưới toàn cầu, ”Suốt mấy năm nghiên cứu Phật giáo, đến thiền đường này, không một ai khuyên tôi quy y làm người Phật tử. Tôi rất ngạc nhiên và ngưỡng mộ cách hành xử của người con Phật. Tuy nhiên điều làm tôi và cả thế giới ngỡ ngàng khâm phục hơn cả chính là sự kiện 2 thánh tích Phật giáo bị Taliban phá hủy. Trong niềm tiếc thương vô biên, người Phật tử toàn thế giới không hề có một lời kêu gọi trả thù hay phỉ báng tôn giáo của những người gây ra hành động này. Cá nhân tôi bàng hoàng, rung chấn con tim tận cùng khi nhận ra rằng: Trong sự mất mát không thể bù đắp này, nhân loại thế giới đang có cơ hội hiếm hoi chiêm nghiệm thành qủa của một tôn giáo mà lòng từ bi, trí tuệ không phải chỉ trong sách vở. Không phải chỉ thể hiện qua một người, vài người mà hằng trăm triệu người con Phật. Tôi quyết định quy y để chính thức làm một người Phật tử nhỏ bé trong mấy trăm triệu người này.”

- Thứ hai: Đối với tập thể, phải có kế hoạch hoạt động xã hội, thiện nguyện bao gồm luôn cả công tác văn hóa theo tinh thần thực tiễn “Có thực mới vực được đạo” để hoằng dương chánh pháp và giữ gìn tín đồ. Chúng ta không thể mơ màng sống với hào quang đạo Phật là đạo tốt lành nhấtđể rồi năm mười năm nữa, bừng mắt dậy thấy Đạo Phật trở thành thiểu số trên chính quê hương mình mình./.

Đào Văn Bình

(Tham luận đọc trong buổi thảo luận về “Vai trò của Phật tử trong thời đại mới” ngày 11/5/2013 tại Chùa Bảo Phước San Jose, California)

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2016(Xem: 5878)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12159)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7176)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6777)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26675)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14129)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 19965)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22702)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18477)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 24885)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567