Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

"Thi Vương" thơ say viết về Phật Đản, Pháp Nạn

05/04/201322:25(Xem: 16661)
"Thi Vương" thơ say viết về Phật Đản, Pháp Nạn

“THI VƯƠNG” THƠ SAY

VIẾT VỀ PHẬT ĐẢN, PHÁP NẠN

Giác Đạo Dương Kinh Thành

Lịch sử luôn trao tận tay từng số phận thuận nghịch của duyên trần (biệt nghiệp) để từ đó hòa mình vào vận mạng chung của cộng nghiệp. Nhà thơ Vũ Hoàng Chuơng là một trong rất nhiều thí dụ điển hình đó mà bài thơ Lửa Từ Bi là điểm son sáng chói nhất.

Bài thơ ấy đã đốt cháynhững trang sách ố vàng của định kiến hẹp hòi khiến bóng đen, mặt tối của những tư tưởng tù túng, của những ngòi bút cong phải dần lùi xa, và cũng chính bài thơ làm nóngnhiều thế hệ văn đàn, để tất cả đều có chung cảm giác… ngơ ngác!

Vũ Hoàng Chương vốn từng có biệt danh Nhà Thơ Say mà! Say bất kể giờ giấc, ở đâu và trong trường hợp nào. Công thức hành say của nhà thơ này là 24/7/30. Đó không không phải là ngày tháng năm đâu, mà là say 24 giờ một ngày, uống 7 ngày trong tuần và uống 30 ngày trong một tháng!(theo:Bloggger choichoi81-Tamtay.vn).

Về một mặt khác, chính sự kiện Pháp nạn 2507 đã kéo nhà thơ Vũ Hoàng Chương từ văn đàn xa xôi bay bổng bên bàn rượu về thâm nhập với thực tại bằng nỗi đau chung của Phật Giáo VN. Và khi đã hòa vào vận mệnh chung của Pháp nạn thì tầm vóc thi ca của nhà thơ bỗng rực sáng hơn nhờ vào tinh thần dấn thân vô úy đó, dù lúc nào bên mình cũng có bầu rượu cay đắng của thế nhân.

Các tác phẩm mang dấu ần thời gian đó có thể tạm liệt kê sau: Thơ Say (1940), Mây (1943),Trương Chi, Vân Muội, Hồng Điệp (1944), Thơ Lừa (1948), Rừng Phong (1954), Hoa Đăng (1959), Tâm Sự Kẻ Sang Tần (1961), Lửa Từ Bi (1963), Ta Đợi Em Từ Ba Mươi Năm (1970), Đời Vắng Em Rối Say với Ai (1971), Chúng Ta Mất hết Chỉ Còn Nhau (1973).vv…

Như vậy Thơ say đứng đầu và mở ra cho ông một nét chuyên biệt trong sự nghiệp thơ ca. Biệt danh nhà thơ saytừ đó được ra đời.

Ruợu và thơ luôn gắn liền nhau mà Lý Bạch xưa kia từng triết lý “Ba Chén Thông Đạo Lớn/ Một Hồ Hợp Tự Nhiên”.Nhà thơ Vũ Hoàng Chương của chúng ta cũng xác định “Em Ơi Lửa Tắt Bình Khô Rượu/ Đời Vắng Em Rồi Say Với ai” (bài Đời Vắng Em Rồi). Đó là biệt nghiệp đời ông vậy.

Nhà thơ từng tốt nghiệp trường Albert Sarraut, từng theo học Đại Học Luật Hà Nội, từng theo học môn toán và từng đại diện văn đàn thi nhân Việt nam dự các hội nghị, liên hoan nước ngoài nhiều lần. Điều này có nghĩa là ông thuộc giới tây họctheo cách gọi thời bấy giờ và có đầy đủ điều kiện thuận lợi để bước vào cuộc sống Tâynhư thói thường thời mất nước. Ông lại đi ngược con đường ồn ào đó để rồi rẽ ngoặt, dùng kiến thức ấy dàn trải những nỗi niềm nhân thế qua ngòi bút thơ ca.

Năm 1964- Phật lịch 2508, Giáo Hội long trọng tổ chức kỷ niệm Đệ Nhất Chu Niên Pháp Nạn với nhiều chương trình có nội dung phong phú và điểm nhấn chính là lễ đài Phật Đản hoành tráng nhất chưa từng có ở Bến Bạch Đằng Sài Gòn.

Sự kiện này nhà thơ say Vũ Hoàng Chương sau Lửa Từ Biđã thả tâm tư mình vào sự kiện muôn thưở ấy bằng một bài thơ dài có tựa đề Trường Ca Ngày Phật Đản.

Bài thơ này như một hồi ức toàn cảnh về những tháng ngày đau thương và kiên cường của PGVN, trong còn có tám em đoàn sinh Oanh Vũ GĐPT của sự kiện đài phát thanh Huê. Bài thơ cũng còn là một bài “Văn tế”cho thế lực u minh mà Bồ Tát Quảng Đức đã có lời phát nguyện dùng thân mình làm đuốc soi sáng(Xin xem nội dung toàn bài thơ đính kèm).

Ngày Đệ Nhất Chu Niên Pháp Nạn ấy là cả một khoảng trời cao rộng cho hàng triệu tấm lòng người con Phật rũ bỏ bao phiền muộn để từ đó vươn lên kiến tạo thêm nhiều trang sử mới. Nhà thơ Vũ Hoàng Chương tuy cũng chỉ là một chủng tử bên hàng triệu triệu chủng tử mang hạt giống Từ Bi khác, nhưng bằng thơ ca, Ông đã tạo nên điểm nhấn cho từng thời, từng sự kiện khác nhau giữa thời thế và với Phật giáo.

Vì vậy, trong những năm đất nước còn trong khói lửa chiến tranh và Phật giáo vẫn cón phải đương đầu với nhiều nghịch duyên mới, mỗi mùa Phật Đản khi ấy với người con Phật luôn là dịp để gởi gấm những tâm tình của mình tung lên khắp ba cõi.

Phật Đản 2516 (1972), nhà thơ sayVũ Hoàng Chương đã gởi gấm những tâm tình đó trong bài thơ Mừng Phật Đản 2516 như sau:

Hoa Nghiêm chợt tỉnh kiếp nào xưa
Cho tấm lòng xuân đẹp mấy bờ
Chuông khánh Hàn San, đêm nhiệt đới
Thuyền vào…tay ngọc rắc như mưa
Cây bên sông đứng hai hàng chữ
In xuống thời gian nghĩa bất ngờ
Vành vạnh trăng lên từ đáy nước
Hải triều vang dội hướng mây đưa.
Mây phong nếp áo ngàn xưa
Mở tung hương sắc hội mưa hoa này
Tròn duyên Thiên nữ chắp tay
Chúng sinh bao kiếp đọa đày sạch trơn.

Thủ bút và chữ ký của tác giả

Năm 1976 nhà thơ say Vũ Hoàng chương của chúng ta đã lặng lẽ từ giã thế gian này giữa lúc bộn bề lo toan cơm áo, bỏ lại sau lưng nhiều luyến tiếc, bởi nếu ông còn sống có lẽ hôm nay Kỷ Niệm 50 Năm Pháp Nạn PGVN có sự đóng góp tiếng nói của chính mình vào đại cuộc, để thế hệ Phật tử kế thừa không ngỡ ngàng với một nhà thơ saymà sao mặn mòi đến Phật giáo, đến Phật Đản hằng năm như vậy.

Bài viết này xin được kết thành một vòng hoa, thành kính tưởng niệm hương linh nhà thơ Vũ Hoàng Chương, hương linh nhạc sĩ Phạm Thế Mỹ nhân kỷ niệm 50 năm Pháp nạn PGVN - Những người làm văn hóa văn nghệ PG khi sống biết làm “nóng” thi đàn, biết dậy màu hoa đạo nhưng khi ra đi lại lặng lẽ …không ngờ!

Thành Kính!

Giác Đạo Dương Kinh Thành
Ý kiến bạn đọc
01/10/201614:43
Khách
người đang ở miền cực lạc mà hình hài của ông như đang hiển hiện đâu đây quanh ta!
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/03/2016(Xem: 11577)
Đọc sách là niềm vui của tôi từ thời còn đi học cho đến nay, chưa bao giờ ngơi nghỉ. Nếu sách hay, tôi chỉ cần đọc trong một hay hai ngày là xong một quyển sách 500 đến 600 trang. Nếu sách khó, cần phải nhiều thời gian hơn thì mỗi lần tôi đọc một ít. Còn thế nào là sách dở? xin trả lời ngắn gọn là: Sách ấy không hợp với năng khiếu của mình. Dĩ nhiên khi một người viết sách, họ phải đem cái hay nhất, cái đặc biệt nhất của mình để giới thiệu đến các độc giả khắp nơi, cho nên không thể nói là dở được. Cuối cùng thì dở hay hay tùy theo đối tượng cho cả người viết lẫn người đọc, là tác giả muốn gì và độc giả muốn học hỏi được gì nơi tác phẩm ấy. Tôi đọc Đại Tạng Kinh có ngày đến 200 trang nhưng vẫn không thấy chán, mặc dầu chỉ có chữ và chữ, chứ không có một hình ảnh nào phụ họa đi kèm theo cả. Nhiều khi nhìn thấy trời tối mà lo cho những trang Kinh còn lỡ dở chưa đọc xong, phải vội gấp Kinh lại, đúng là một điều đáng tiếc. Vì biết đâu ngày mai đọc tiếp sẽ không còn những đoạn văn hay tiếp
21/02/2016(Xem: 5922)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12280)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7242)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6830)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26860)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14212)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 20085)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22859)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18590)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567