Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đóng Góp Của Phật Giáo Vào Phúc Lợi Xã Hội Ở Úc

15/09/201100:55(Xem: 3797)
Đóng Góp Của Phật Giáo Vào Phúc Lợi Xã Hội Ở Úc
ĐÓNG GÓP CỦA PHẬT GIÁO
vào phúc lợi xã hội ở Úc

Patricia Sherwood
(Phân khoa Nhân loại học xã hội, Đại học Edith Cowan)

Bài viết này phác thảo những kết quả nghiên cứu được thực hiện vào năm 2000 về những đóng góp của các tổ chức Phật giáo vào phúc lợi xã hội ở Úc. Việc nghiên cứu này minh chứng rằng, Phật giáo Úc rõ ràng là tôn giáo nhập thế, không chỉ ở trong thực tiễn, mà còn xuất phát từ quan điểm các thành viên của những tổ chức Phật giáo, họ cho rằng sự thực hành như vậy luôn là điều quan yếu đối với những tổ chức Phật giáo của họ và không phải là một hiện tượng mới.

54 trong số 319 tổ chức Phật giáo ở Úc (xấp xỉ 17%) được chọn làm đối tượng nghiên cứu. Số lượng những tổ chức Phật giáo từ các truyền thống Phật giáo Nguyên thủy, Đại thừa và Phật giáo Tây Tạng được đưa ra làm mẫu nghiên cứu là xấp xỉ bằng nhau, với tổng số 96% các tổ chức đã dấn thân tích cực trong những hoạt động phúc lợi xã hội và giáo dục.

Một bảng câu hỏi mở đã được sử dụng với mỗi tổ chức để thăm dò những hoạt động xã hội dấn thân mà các tổ chức đang thực hiện. Các vị đại diện của các tổ chức cũng được hỏi lý do về công việc dấn thân xã hội của họ, và họ có thấy công việc đó như là một sự thực hành tương đối mới trong những tổ chức của họ hay không, hay là một sự thực hành cốt yếu được tiếp nối tương tục ở trong truyền thống Phật giáo?

Có một sự tranh luận đáng kể về việc Phật giáo nhập thế có phải là một hiện tượng mới được vun trồng ở phương Tây, hay nó là một bộ phận của truyền thống Phật giáo, nhưng bây giờ được phát triển theo một cách thức rõ ràng ở phương Tây. Kraft đã đặt ra những câu hỏi trong bài viết “Hòa bình đang được thiết lập: Tinh thần nhập thế ở Phật giáo phương Tây” về cách thức Phật giáo được truyền bá đến phương Tây, sẽ dấn thân vào công việc phúc lợi xã hội như thế nào. Trong lời giới thiệu của mình cho tuyển tập những bài tiểu luận của Eppsteiner do những người nhập thế có ảnh hưởng trong Hiệp hội Hòa bình của Phật giáo (Buddhist Peace Fellowship) viết, và được xuất bản với tên gọi là “Con đường Từ bi”, Kraft cho rằng những truyền thống Phật giáo nhập thế đã luôn tiềm tàng trong Phật giáo từ thời Đức Phật. Ông tiếp tục thảo luận tỉ mỉ tại sao Phật giáo nhập thế ở phương Tây đã làm cho những phẩm chất này hưng thịnh:

“Những phẩm chất mà chúng được thừa kế ở nơi môi trường Á châu tiền hiện đại… bây giờ có thể thực hiện qua việc chuyển hướng của Phật giáo đến phương Tây, nơi tình cảm đạo đức, chủ nghĩa tích cực xã hội và chủ nghĩa quân bình được nhấn mạnh”.

Tuy nhiên, trong quyển sách gần đây của mình, “Phật giáo nhập thế ở phương Tây”, Queen nhấn mạnh rằng, Phật giáo nhập thế chỉ xuất hiện trong bối cảnh gần đây liên quan đến những quan tâm toàn cầu về nhân quyền và công bằng xã hội. Ông định nghĩa Phật giáo nhập thế như là sự áp dụng Phật pháp vào việc giải quyết những vấn đề xã hội. Yarnall, trong bài viết “Phật giáo Nhập thế: Mới và Phát triển? Được làm ở Hoa Kỳ bằng nguyên liệu châu Á”, tóm tắt một cách sắc sảo hai luận điểm căn bản trong số các học giả về Phật giáo nhập thế. Một nhóm, chẳng hạn như Queen, người mang danh xưng là “những nhà cách tân” đề xuất rằng, mặc dù có thể có những lý thuyết liên quan đến chính trị xã hội tiềm tàng trong Phật giáo Nguyên thủy, nhưng chúng đã không được phát triển, mãi đến khi Phật giáo tiếp xúc với xã hội phương Tây hiện đại. Sự thực, Phật giáo nhập thế có những khác biệt quan trọng so với Phật giáo truyền thống.

Nhóm khác, mà ông gọi là “những nhà truyền thống”, đã không bao giờ chấp nhận một sự phân đôi Phật giáo thành hai lĩnh vực tâm linh và xã hội; và từ quan điểm này, Phật giáo với hai trụ cột trí tuệ và từ bi, tất yếu liên quan đến hạnh phúc con người cả ở phương diện cá nhân và xã hội. Những hình thức Phật giáo hiện đại về bản chất là tiếp giao với những hình thức truyền thống, bất chấp vũ đài xã hội và ngữ cảnh văn hóa khác biệt. Quan điểm này của những nhà truyền thống được những Phật tử trong các tổ chức Phật giáo ở Úc ủng hộ mạnh mẽ. Họ ủng hộ quan điểm rằng, những hoạt động phúc lợi xã hội luôn là phần cốt yếu ở trong Phật giáo, mặc dù truyền thống văn hóa có thể khác nhau. Họ không tách sự giác ngộ ra khỏi nhập thế. Trong kinh nghiệm của họ, điều đó là bất nhị. Giác ngộ và nhập thế, công việc bên trong và công việc bên ngoài, không được quan niệm như một sự tách rời, mà, thay vì vậy, hỗ tương và gắn kết với nhau. Ken Jones ủng hộ quan điểm này, biện luận thêm rằng, trong triết học và thực hành của Phật giáo không thể có sự tách biệt giữa lợi ích cá nhân và lợi ích xã hội.

Quan điểm của Bucknell về Phật giáo nhập thế ở Úc, mặc dù là bài viết đầu tiên về chủ đề này, có khuynh hướng xem những hoạt động nhập thế nói chung là ngẫu nhiên đối với những tổ chức Phật giáo, đặc biệt đối với những tổ chức không phải của người nhập cư. Ông cho rằng, những tổ chức Phật giáo cùng sắc tộc đóng vai trò như là những trung tâm phúc lợi và văn hóa chủ yếu dành cho những cộng đồng người nhập cư. Những kết quả của việc nghiên cứu bao quát này về các tổ chức Phật giáo ở Úc trong các lĩnh vực hoạt động xã hội dấn thân không ủng hộ quan điểm này của Bucknell.

Có một sự dấn thân quy mô lớn trong lĩnh vực phúc lợi xã hội và hoạt động giáo dục của 96% trong số các tổ chức Phật giáo, của cả những người nhập cư và người bản xứ. Trong đa số các trường hợp, đóng góp của những tổ chức Phật giáo thuộc những người nhập cư vượt ra ngoài cộng đồng văn hóa hay sắc tộc của họ. Quan điểm của Bucknell là không chính xác, rằng có hai loại hoạt động Phật giáo nhập thế ở Úc: những hoạt động ở lĩnh vực chăm sóc người bệnh và những hoạt động ủng hộ cứu tế xã hội ở hải ngoại và những đề án phát triển. Mặc dù hai lĩnh vực này là điển hình trong số những hoạt động nhập thế ở Úc, phạm vi bao quát và rộng rãi hơn lại thuộc về chín lĩnh vực hoạt động được liệt kê bên dưới.

Trong bài viết này, tôi định nghĩa Phật giáo nhập thế là sự thực hành Phật giáo mà nó bao hàm một sự đóng góp giúp giải thoát nỗi đau khổ của chúng sanh, gồm cả chính chúng ta. Quan điểm này được nhà cải cách người Thái, ông Sivaraksa, giảng giải một cách thuyết phục khi nói về bản chất của Phật giáo, ông cho rằng: “nó có nghĩa là trách nhiệm sâu sắc và sự chuyển đổi con người. Để phụng sự, chúng ta phải trở nên vô ngã hơn và giảm bớt sự vị kỷ. Để thực hiện điều này, chúng ta càng phải có trách nhiệm đạo đức hơn trong xã hội. Đây là điều cốt tủy của tôn giáo, từ thời xa xưa cho đến hiện tại”.

Tôi chọn lựa và tập trung vào lĩnh vực giáo dục và phúc lợi xã hội. Đóng góp phúc lợi xã hội của Phật giáo ở Úc là bao quát và có thể được phân thành chín lĩnh vực sau:

1. Giáo dục cho người lớn trong cộng đồng.

2. Giáo dục trẻ em.

3. Hỗ trợ người bệnh trong các bệnh viện và các bệnh viện dành cho người hấp hối.

4. Hỗ trợ bệnh nhân và người sắp qua đời ở trong cộng đồng và chăm sóc bệnh nhân nan y.

5. Thăm hỏi tù nhân.

6. Hỗ trợ người nghiện ma túy.

7. Gây quỹ cho người nghèo khó (cả ở Úc và hải ngoại).

8. Diễn thuyết về nhân quyền và chống áp bức.

9. Tiến hành những hoạt động từ bi dành cho các loài động, thực vật.

Trên 96% trong số những tổ chức Phật giáo được nghiên cứu ở Úc là dấn thân vào những chương trình giáo dục cộng đồng. Những trường hợp khác nhau được lựa chọn để minh chứng cho phạm vị các hoạt động và những tổ chức liên quan. Đây không phải là một sự liệt kê hết mọi khía cạnh. Tổ chức Những người bạn của Giáo hội Phật giáo phương Tây (The Friends of the Western Buddhist Order), với các trung tâm ở Melbourne, Sydney và Toowoomba ở Queensland, thực hiện những chương trình giáo dục và giảng dạy rất toàn diện. Họ tổ chức những buổi pháp thoại công cộng để dạy về nguyên nhân và cách làm vơi bớt khổ đau, và những chương trình dành cho sức khỏe tinh thần, giảng dạy những kỹ năng chung về thiền định và kiểm soát sự căng thẳng. Chi nhánh Toowoomba cũng tổ chức một chương trình dạy võ công cộng để đẩy mạnh giáo dục sức khỏe hình thể.

Tổ chức Quốc tế Phật Quang Sơn, với các chi nhánh ở Wollongong, Perth, Sydney, Brisbane và Melbourne, cũng thực hiện các hoạt động cộng đồng giúp phát triển những tư tưởng cao thượng, gồm các pháp thoại, thiền định và những chương trình phát triển. Những chương trình giáo dục văn hóa gồm có cắm hoa, thư pháp và các lớp dạy nấu ăn chay. Ngôi chùa tại Perth đã thực hiện một loạt các pháp thoại công cộng và các nhóm thảo luận về đạo Đức Phật giáo. Những buổi thảo luận này bao gồm việc nghiên cứu những vấn đề đạo đức nan giải như phá thai, ly hôn, đồng tính, tự tử, trầm cảm và nghiện ma túy. Mục đích là để phát triển những gì Đức Phật gọi là những “phương tiện thiện xảo” liên quan đến đời sống mà chúng giúp làm tăng trưởng hạnh phúc và giảm thiểu khổ đau của con người trong ánh sáng giáo lý Tứ Diệu Đế.

Chi nhánh Brisbane chứng minh một cách rõ ràng rằng, những tổ chức của người nhập cư không chủ yếu phục vụ những cộng đồng cùng sắc tộc của họ trong những lĩnh vực giáo dục và phúc lợi xã hội. Sự thật rằng họ thực hiện những lớp dạy Hoa ngữ và văn hóa hàng tuần, những lớp học ấy mở cửa cho công chúng, nhưng chủ yếu là người Hoa theo học; tuy nhiên, họ cũng thực hiện những chương trình ở trường công lập, giảng dạy về văn hóa Trung Hoa và Phật giáo, có hơn 10.000 trẻ em tham gia mỗi năm. Có một số chùa được giao nhiệm vụ điều hành những chương trình này toàn thời gian.

Thêm vào đó, những ngôi chùa thuộc Phật Quang Sơn ở Brisbane, Perth và Melbourne tổ chức các lễ hội lớn cho người dân ở Úc tham gia vào ngày lễ Vesak. Lễ hội ở Brisbane là một sự kiện lễ hội và giáo dục được thực hiện ở South Bank, trung tâm của thành phố, đã thu hút hàng ngàn người Úc bản địa. Lễ hội có sự tham gia của những nhóm văn hóa khác nhau, và thúc đẩy sự hòa hợp xã hội bằng việc giới thiệu đến công chúng những loại hình văn hóa và các truyền thống. Tổ chức Trợ tử của Phật mẫu Tara (Hospice of Mother Tara) ở Tây Úc tổ chức một số cuộc hội thảo công cộng về những vấn đề đạo đức đương đại từ quan điểm của Phật giáo, với mục đích cụ thể là trợ giúp các thành viên của cộng đồng phát triển sự hiểu biết đúng đắn.

Họ cũng tổ chức các khóa tu để khuyến khích cộng đồng tham gia thiền định. Hiệp hội Hòa bình của Phật giáo (Buddhist Peace Fellowship), với các chi nhánh ở Melbourne và Sydney, chỉ trên một thập kỷ, đã điều hành một chương trình giáo dục cộng đồng về những vấn đề then chốt liên quan đến phúc lợi xã hội rất năng động. Chương trình bao gồm những vấn đề về quyền của người thổ dân, những tác động của toàn cầu hóa, và quyền của những người Đông Timo. Hiện tại họ đang thực hiện một loạt các hội thảo về giáo dục đối với những phiến quân ở Mexico. Họ cũng điều hành những buổi hội thảo huấn luyện công cộng về những vấn đề chống bạo lực, thiền định, giải quyết xung đột và kiến tạo hòa bình. Họ tích cực trong việc chống toàn cầu hóa, giải trừ vũ khí hạt nhân, và đòi quyền cho những người thổ dân.

Tất cả những tổ chức Phật giáo đều nhấn mạnh sự cần thiết của việc giảng dạy Phật pháp cho cộng đồng, vì khổ đau được cho là có nguồn gốc căn bản từ suy nghĩ và hiểu biết của con người. Họ cho rằng, nếu muốn giải thoát khỏi khổ đau, thì con người cần phải hiểu giáo lý Tứ Diệu Đế. Các nhóm người Tây Tạng giải thích rằng, nhiệm vụ trọng tâm của họ đối với việc giáo dục cộng đồng là vì hạnh nguyện Bồ tát. Bồ tát là người đã đạt được giác ngộ, nhưng thay vì từ bỏ cõi đời, các vị vẫn làm việc để giải thoát khổ đau. Chiều sâu của nhiệm vụ này gắn kết mật thiết với lời nguyện từ bi vô lượng của Bồ tát:

“Tôi nguyện giải thoát tất cả chúng sanh. Tôi nguyện cứu độ toàn thể thế giới hữu tình ra khỏi những sợ hãi của sanh, già, bệnh, chết và tái sinh, khỏi những sợ hãi của tất cả những gì chống trái với đạo đức, của tất cả những tình trạng đau khổ. Những nỗ lực của tôi không chỉ nhằm vào sự giải thoát cho riêng mình. Và với sự trợ giúp của con thuyền bát nhã, tôi nguyện cứu vớt tất cả những chúng sanh này ra khỏi dòng luân hồi sinh tử, một dòng xoáy rất khó vượt qua… Tôi quyết ở lại trong mỗi cảnh giới khổ đau từ vô lượng kiếp; và như vậy tôi sẽ giúp tất cả chúng sanh đều được giải thoát”.

Các tổ chức Phật giáo Trung Quốc nhấn mạnh rằng, động cơ dấn thân vào những hoạt động phúc lợi xã hội của họ là noi theo hạnh nguyện của Bồ tát Quán Thế Âm, vị Bồ tát của lòng từ bi. Các tổ chức Phật giáo Nguyên thủy thì nhấn mạnh tầm quan trọng của Bát Chánh Đạo. Con đường này bao gồm việc phát triển Chánh kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm và Chánh định. Như là kết quả của việc giảng dạy con đường Trung đạo này, mỗi cá nhân có thể có cơ hội để tạo nên những phẩm chất ấy trong đời sống của họ. Họ nhấn mạnh những lời dạy của Đức Phật trong các bản kinh, chẳng hạn như: “Người có được sự hiểu biết này và có trí tuệ lớn thì không nghĩ đến việc làm hại mình hại người, không làm hại cả hai. Vị ấy nghĩ đến lợi ích của bản thân và lợi ích của người khác, lợi ích của cả hai, và nghĩ về lợi ích của toàn thể thế giới. Bằng cách đó vị ấy thể hiện sự hiểu biết và trí tuệ rộng lớn”.

Các hoạt động giáo dục cộng đồng quan trọng khác bao gồm cả việc đối thoại liên tôn giáo và những hoạt động hòa giải. Ni sư Sumedha, đến từ Trung tâm Phật giáo Quốc tế ở Darwin, đã tham gia tích cực vào những hoạt động liên văn hóa và tôn giáo. Tổ chức này nhấn mạnh vào việc xây dựng hòa hợp xã hội trong một cộng đồng đa văn hóa. Họ dấn thân vào chương trình hòa giải quốc gia với những cộng đồng thổ dân. Nền tảng triết học của chương trình này nằm ở sự nhận thức Phật giáo về sự kết nối lẫn nhau của tất cả chúng sinh và kết quả của hòa hợp xã hội có thể được tạo ra thông qua việc thực hành tuệ giác này. Đề án Tara ở Sydney cũng dấn thân tích cực vào quy trình hòa giải và đối thoại liên tôn giáo. Tổ chức này thực hiện việc định hướng văn hóa, tôn giáo và giáo dục cho những người dự định làm việc ở nơi môi trường thế giới thứ ba. Ở đây lại nhấn mạnh đáng kể vào việc tôn trọng sự đa dạng và vào sự gắn kết tuyệt đối vào nhau của tất cả chúng sanh.

Chỉ có hai tổ chức trong số 54 đối tượng nghiên cứu đã không tham gia vào bất cứ chương trình giáo dục hay phúc lợi xã hội nào. Một tổ chức thuộc Phật giáo Nguyên thủy và một tổ chức thuộc Thiền tông. Cả hai nói rằng, lý do hiện diện của họ là để đem lại một đạo tràng thực hành thiền định chuyên sâu dành cho những thành viên của họ. Cả hai biện luận rằng, đã có đủ những chương trình giáo dục và phúc lợi xã hội cho cộng đồng do những tổ chức Phật giáo khác thực hiện.

(còn tiếp)

Nguyên Hiệp lược dịch

(Journal of Buddhist Ethics, Vol. 8, tr. 61-74)

(NGUYỆT SAN GIÁC NGỘ SỐ 186)
(Thư Viện Hoa Sen)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/03/2023(Xem: 6443)
Tây phương Kinh tế học có thể bị chỉ trích bởi dựa trên sự hợp lý hóa hành vi cạnh tranh, tối đa hóa lợi nhuận vì lợi ích của một nhóm nhỏ, phụ thuộc vào sự cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và sự suy thoái môi trường chung của chúng ta. Trong khi đó, Kinh tế học Phật giáo được hình thành dựa trên sự tương tác phụ thuộc lẫn nhau của con người và môi trường, do đó mang lại sự an lạc hạnh phúc dựa trên từ bi tâm đối với tất cả chúng sinh. Mục tiêu của nó là duy sự phát triển bền vững gắn liền bảo vệ môi trường và thích ứng với biến đổi khí hậu hiện nay, đồng thời khẳng định sự thịnh vượng chung và mang đến sự an lạc thịnh đạt cho người lao động, khách hàng, cổ đông và xã hội.
03/02/2023(Xem: 5670)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 6361)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 5373)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 13822)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 18362)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 13914)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12300)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6502)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8682)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567