Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

5- Yêu Và Thương

15/05/201311:04(Xem: 3140)
5- Yêu Và Thương


THẾ GIỚI HÒA ĐỒNG

HỘI LUẬN GIỮA H.H THE DALAI LAMA& TÁM NHÀ TÂM LÝ HOA KỲ

Bản dịch:Chân Huyền

Nhuận sắc: Chân Văn

CHƯƠNG 5

YÊU VÀ THƯƠNG

Câu hỏi của thính giả:

Chúng ta đã nói quá nhiều về đau khổ và những điều tai hại. Xin quý vị nói thêm về Niềm Vui là Hạnh Phúc.

Đạt lai lạt ma:

Khi có người giúp bạn bớt Khổ là bạn đã vui rồi. Tây Tạng chúng tôi có câu: “Nếu bạn vui thái quá thì sau đó bạn sẽ phải khóc thôi.” Câu này nói lên sự tương đối giữa cái mà ta gọi là Vui và Khổ, và nó có nghĩa là chuyện gì cũng có giới hạn.

Đối với quan điểm của một người thực hành đạo Bụt, điều quan trọng là bạn phải có một tinh thần an nhiên, vững vàng, không bị lên cao hay xuống thấp nhiều quá. Có vui, có khổ, có cả phiền muộn chán đời, nhưng không quá cao, quá thấp. Lối sống này có thể coi như thiếu màu sắc, nhưng thật ra, sống căng thẳng với quá nhiều kích động là điều không tốt. Cũng giống như ánh sáng trong phòng. Khi quá sáng làm loá mắt, lúc quá tối không nhìn rõ, cả hai đều không có ích lợi mấy.

Lối sống này phụ thuộc nhất là vào tình trạng tinh thần của chúng ta. Tôi cho rằng giữ được tâm bình an vững chãi là điều quan trọng nhất. Muốn có tâm bình, ta phải tập luyện. Tâm trí chúng ta có thể trở nên vững vàng, kiên cường, ít bị ngoại cảnh lôi kéo xô đẩy. Ngược lại với tình trạng trên là khi bạn quá nhạy cảm: một chút chuyện buồn có thể làm bạn chán đời, và một chút vui cũng làm bạn bị kích thích mạnh mẽ. Sống như vậy thật không nên.

Trí tuệ trong tâm thức thâm sâu của bạn sẽ giúp bạn ứng xử với những chuyện khó khăn. Bạn đừng để vấn đề nó nhận chìm, mà hãy chấp nhận và từ tốn giải quyết nó. Khi có chuyện vui tới, bạn hãy tiếp nhận nó một cách an nhiên. Chấp nhận mọi chuyện một cách bình thường, đó là bí quyết.

Daniel Brown:

Thưa ngài, tôi xin hỏi một câu về bản chất của cách thực tập này. Hầu như có hai lối thực tập: một là làm việc với những cảm xúc tiêu cực (hay những tính bất thiện) và hai là phát triển những tính tốt của mình. Đó là hai cách thực tập bổ túc nhau nhưng độc lập với nhau. Làm việc với những cảm thọ tiêu cực không nhất thiết sẽ làm tăng các đức tính. Là con người, ta cũng cần nuôi dưỡng những tính tốt như lòng tin, tính kiên nhẫn và lòng bác ái.

Trong xã hội chúng tôi, có nhiều ngành trị bệnh thiên về phân tích tâm lý như Phân tâm học chẳng hạn, họ chú ý tới những tính chất bất thiện của tâm tư. Các ngành khác (như trị liệu bằng sự hoán chuyển cá nhân), lại cho là chúng ta phải nuôi dưỡng các đức tính nữa. Chúng tôi thường không đồng ý mà chống đối nhau về vấn đề này. Trong đạo Bụt, làm sao để phát triển các tính thiện?

Đạt lai lạt ma:

Muốn nuôi dưỡng lòng vị tha, thiền giả phải coi trọng hạnh phúc của người khác, quán chiếu nhiều lần về những hậu quả của sự săn sóc và tình thương yêu dành cho những người đó. Thiền giả cũng phải quán chiếu về những hậu quả bất lợi của sự ích kỷ, chỉ biết phục vụ ưu tiên cho phúc lợi của mình mà chống lại người khác. Hai cái nhìn khác nhau này của thiền quán đưa tới một trạng thái tinh thần lành mạnh. Tương tự như vậy, khi tập nuôi dưỡng lòng từ bi, người ta có thể cũng quán chiếu về cái tâm ganh ghét. Hai thứ này đi đôi với nhau và đều có ích cả. Ta nên chú trọng vào loại tâm nào trước? Thật khó mà định được, vì nó là vấn đề của từng cá nhân.

Daniel Goleman:

Thưa ngài, trong thế giới tây phương, chúng tôi có một thứ mẫu mực nào đó cho sức khoẻ hay sự lành mạnh tinh thần. Đạo Bụt Tây Tạng có khuôn mẫu nào về chuyện này không?
Đạt lai lạt ma:

Nói một cách tuyệt đối, chỉ có Bụt là người lành mạnh mà thôi. Nhưng nói như vậy thì không thực tế. Vậy nên, thực tế mà nói, hiện nay hình như chúng ta chỉ dùng những ước lệ bình thường để coi khi nào thì con người lành mạnh? Khi nào thì xã hội công nhận một con người là tốt và lành mạnh? – Không có gì tuyệt đối hết. Bạn có thể gặp một người coi như rất lương hảo, nhưng khi bạn thấy một người khác có lòng từ bi và trí tuệ hơn, thì người thứ nhất lại bị coi như kém rồi. Ta không thể có một tiêu chuẩn tuyệt đối được.

Nhưng khi muốn cho rõ ràng hơn, thì ta có thể nói rằng, một con người lành mạnh là người sẵn lòng giúp đỡ tha nhân khi có cơ hội. Khi không có cơ duyên, thì ít nhất họ cũng không làm hại ai. Sống như vậy, họ là người lành mạnh. Đây là điều căn bản của đạo Bụt. Thực ra, tôi tin đó cũng là căn bản của các tôn giáo khác.

Daniel Goleman:

Vậy khi con người biết thương yêu một kẻ khó thương là họ mở được con đường từ bi?

Đạt lai lạt ma:

Phải, đúng như vậy.

Margaret Brenman-Gibson:

Trường hợp này thường xảy ra cho các nhà tâm lý trị liệu. Họ phải có thể thực sự thương người đang đau khổ kia, người mà họ thấy không có điểm nào dễ thương cả.

Tôi thường hỏi sinh viên sau lần đầu tiên các em gặp bệnh nhân, là con người đầy khổ đau đang cần được cứu giúp: “Em có thấy ưa người bệnh chút nào không? Thực tâm em thấy sao? Hãy thành thực cho tôi biết”. Nếu câu trả lời là “không” thì tôi bảo em để người bệnh cho sinh viên khác chữa. Nếu bạn không thấy một điểm dễ thương nào ở người bệnh, nếu bạn không thật sự đáp ứng được nhu cầu của người đó thì bạn không phải là thầy thuốc thích hợp cho họ.

Đạt lai lạt ma:

Phải, điều này rất đúng.

Daniel Goleman:

Hình như những người đã từng là nạn nhân bị cha mẹ bạo hành, hay lớn lên thiếu tình thương, thường rất khó có lòng từ bi với người khác. Thưa ngài, ngài có cách nào giúp cho những người không thương mình mà lại có từ tâm đối với kẻ khác chăng?

Đạt lai lạt ma:

Nếu người ta chưa bao giờ được yêu thương, từ bất cứ đâu, nếu chưa có ai biểu lộ tình thương dành cho họ, thì rất khó. Nhưng con người đó chỉ cần gặp một người nào tỏ ra yêu thương họ hết lòng - chấp nhận và từ bi với họ - thì cho dù họ chưa từng yêu con người mình, họ vẫn có thể có từ tâm với người khác khi biết được là người khác cần tới họ. Bởi vì trong con người, ai cũng có những hạt giống của từ bi và yêu thương, chỉ cần có chất xúc tác là chúng hiện hành.

Stephen Levine:

Thưa ngài, nhiều người dù đã cố gắng rất nhiều, vẫn đi tới chỗ không thể sống an vui được. Nhiều người đang phục vụ kẻ khác mà tâm rất buồn phiền. Phật pháp có thể dạy gì cho chúng tôi trong việc này?

Đạt lai lạt ma:

Có lẽ bạn phải cấy cho họ một ít tế bào óc của người Tây Tạng. Chúng tôi thường dễ vui lắm. Tôi nói đùa vậy thôi. Khi một người sống với quá nhiều thảm kịch, thì điều nên làm là chấp nhận quan niệm rằng chúng ta có nhiều tiền kiếp và nhiều đời sống sau khi chết. Như vậy, tầm nhìn sẽ rộng hơn dù đời sống hiện tại của họ không còn hy vọng.

Nhưng tôi nghĩ rằng bạn không nói tới những kiếp người đầy bất hạnh, mà bạn muốn chú ý tới những con người theo một truyền thống tâm linh nào đó và hay làm việc công ích, nhưng vẫn cảm thấy chán đời, thiếu hạnh phúc và không có khả năng sống vui vẻ. Trong khi thiền tập, người ta có thể tiến sâu và có hiểu biết về cái Tâm mình, cùng bản chất không vui của cuộc đời. Torng tiến trình đó, họ mong cầu được thoát khỏi vòng Khổ não. Nhưng nếu kết quả thiền tập của họ - trong khi vẫn sống rằng buộc với xã hội – không được thoả đáng lắm, họ thấy không đạt được trình độ họ mong cầu, thì sự thất vọng sẽ làm cho họ không còn vui được. Vấn đề có thể là vì họ mong cầu nhiều quá. Ai muốn nhiều lúc đầu thì sau cũng sẽ mất vui.

Jean Shinoda Bolen:

Thưa ngài. Tôi có một câu hỏi về vấn đề thăng bằng giữa lòng từ bi và sự không vướng mắc (hỷ xả). Trong tâm lý học tây phương, hình như khi muốn giúp một người nào, chúng tôi không tới gần họ được như người Phật tử Tây Tạng thường được khuyến khích làm. Tôi nghĩ là quý vị hành xử gần với phương pháp trị bịnh tâm thần hơn. Chúng tôi thường có lòng vị tha và quan sát cảm thọ của người khác, ráng để tình cảm mình không bị cuốn hút vào đó trong khi làm công việc chữa trị. Nhưng nếu chúng tôi sống với người thân cận bằng thái độ đó, chỉ quán sát mà không có phản ứng, chỉ nghĩ tới họ và có lòng từ bi thôi, thì chúng tôi sẽ không gần họ đủ để có tình thân lâu dài. Một trong những vấn đề người trị bịnh tâm thần và có lẽ cả các thiền giả có thể mắc phải là chúng ta không còn phản ứng đích thật trước hoàn cảnh của người khác. Nếu tiến xa hơn, chúng ta sẽ rơi vào tình trạng dửng dưng của những người chế tạo bom. Chúng ta rời xa trái tim mình, rời xa các cảm ứng, sợ hãi và mất luôn các loại cảm xúc khác.

Ta cần hoá giải những điều trái ngược này - để có thể quán sát với lòng từ bi mà vẫn có thể chăm sóc, liên hệ chặt chẽ với người khác. Vẫn cảm thấy những mất mát tình cảm làm ta buồn, và người khác vẫn có thể khiến ta đau khổ vì ta thực sự quan tâm tới họ. Không còn vấn đề vướng mắc hay dửng dưng nữa. Tuỳ theo công việc, ta có thể tìm được mức độ tối hảo cho sự thăng bằng này.

Jack Engler:

Đặc biệt người Mỹ chúng tôi thường tưởng như chúng tôi phải có quyền sống Hạnh Phúc. Sự thật, chúng tôi nổi giận dễ dàng khi không có hạnh phúc hay khi thấy người khác có được cái gì mình không có, hay khi thấy họ có nhiều hơn mình. Điều này hầu như nằm trong nhiều quy tắc nền tảng để xây dựng quốc gia này.

Quan niệm đó cũng khác với quan niệm của Phật Giáo về khả năng sống hạnh phúc. Ý tưởng cho là ta có quyền ngay lúc này, không cần đợi chờ, và ta không cần phải làm việc cực khổ mới có được hạnh phúc là ý tưởng rất nguy hại. Nhưng đó là một phần giấc mộng của người Mỹ. Dù hiến pháp Hoa Kỳ có viết: chúng ta có quyền theo đuổi hạnh phúc, nhưng chúng tôi cho như vậy là mình có quyền sống hạnh phúc hoài hoài. Ý tưởng này ảnh hưởng lên mọi hành động của chúng tôi. Tỷ dụ như khi thực tập theo đạo Bụt khong mang lại hạnh phúc tức thời cho chúng tôi thì chúng tôi sẽ không có bao nhiêu khả năng để thực hành bồ tát đạo, sống từ bi và phục vụ. Đằng sau tất cả những quan điểm đó, chúng tôi lại quan niệm rằng hạnh phúc cá nhân mới là thứ quan trọng nhất đời. Điều này luôn luôn được nhấn mạnh trong văn hoá chúng tôi.

Đạt lai lạt ma:

Cố gắng để đạt được hạnh phúc cá nhân là chuyện tự nhiên. Nhưng điều này khác xa với chuyện vì hạnh phúc của mình mà coi thường, bỏ qua hoặc làm hư hạnh phúc của những người khác. Hai điều này rất là khác biệt.

Câu hỏi của thính giả:

Xin ngài nói thêm về lòng từ bi và các cơ sở, tổ chức – như cơ sở kinh doanh, xã hội hay cơ quan chính phủ? Làm sao ta có thể giúp đỡ các tổ chức này hành động có từ ái?

Đạt lai lạt ma:

Trước tiên, không có tổ chức nào mà không là tập họp của các cá nhân. Không có người ta thì không có cơ quan nào cả. Vậy thì điều tốt nhất là ta chú trọng vào các cá nhân trong cơ sở đó, nhất là những người có trách nhiệm lớn lao, để khuyến khích họ nên có chánh niệm (tỉnh thức) và lòng từ bi. Làm cho tất cả tổ chức hiểu rõ hơn về những phúc lợi do lòng từ ái mang lại: chuyện này quan trọng ngang với vấn đề sống còn của tổ chức.

Jean Shinoda Bolen:

Xin ngài nói thêm về vấn đề sống còn?

Đạt lai lạt ma:

Chúng ta đã trao đổi rất nhiều về khủng hoảng của nền văn minh hiện đại, về những rối loạn và các vấn đề lớn đang xảy ra. Nguyên do vì đâu? Đó là vì ta thiếu tình thương và lòng từ. Nếu chúng ta nhìn kỹ vào vấn đề này, ta sẽ hiểu về những hệ quả tất yếu của lòng từ bi. Dĩ nhiên sự đe doạ của vũ khí nguyên tử rất nguy hiểm, nhưng muốn chấm dứt được sự đe doạ này, giải pháp cuối cùng vẫn là tâm từ bi: ta phải hiểu rằng tất cả mọi con người đều là anh chị em cả.

Câu hỏi thính giả:

Tôi nhận thấy là trẻ em bắt đầu mất lòng từ ái khi chúng đi học, vô trường gặp phải những trẻ không biết thương yêu. Xin ngài đề nghị cho chúng tôi một phương pháp nào dạy cho trẻ biết cách đối phó với những kẻ không có tâm từ bi mà vẫn phát triển được lòng vị tha trong con người chúng?

Đạt lai lạt ma:

Điều rất quan trọng là trẻ phải được thân cận với những người bạn tốt, tử tế, và gần gũi với cha mẹ chúng trong gia đình. Vấn đề là ta cần cố gắng thắt chặt mối giây liên hệ thân thiết của gia đình. Nếu không, chúng ta không làm được bao nhiêu.

Con người ta khi sinh ra được bú sữa mẹ. Đó là bài học đầu tiên về tình yêu và lòng từ ái. Bú sữa từ vú mẹ, tự nó là một bài học về sự liên hệ có gốc rễ là tình thương yêu. Chúng ta phải cố gắng giữ gìn tinh thần đó. Nhờ nó, nhờ mối liên hệ yêu thương giữa ta và sữa mẹ mà ta phát triển những tình cảm thân thương sau này. Tình yêu thương gia đình rất cần thiết. Nếu có không khí từ ái trong gia tộc, thì không chỉ cha mẹ mà các con cháu cũng được hưởng phúc lợi nhiều. Trẻ sẽ khoẻ mạnh hơn cả về thể xác lẫn tinh thần.

Tôi tin tưởng một cách sâu xa lòng từ ái không phải chỉ là con đường phát triển của loài người, mà nó cũng là sự sống còn của nhân loại, khi ta quan niệm sống còn là sanh ra và lớn lên. Đối với tôi, chuyện này rất rõ rệt.


---o0o---

Vi tính: Tường Chánh

Trình bày: Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
21/02/2016(Xem: 5894)
Dưới đây là phần chuyển ngữ bài thuyết trình của bà Gabriela Frey với chủ đề "Phụ nữ và Phật giáo", trước cử tọa của tổ chức Ki-tô giáo FHEDLES (Femmes et Hommes, Égalité, Droits et Libertés, dans les Églises et la Société/Nữ và Nam giới, Công bằng, Luật pháp, Tự do, trong Nhà thờ và ngoài Xã hội). Buổi thuyết trình diễn ra ngày 5 tháng 12 năm 2013, và sau đó đã được ghi chép lại và phổ biến trên nhiều trang mạng, trong số này có trang mạng của Tổ chức FHEDLES trên đây và Hiệp hội Sakyadhita Quốc Tế (Sakyadhita International Association of Buddhist Women/Hiệp hội Phụ nữ Phật giáo trên thế giới).
26/01/2016(Xem: 12239)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
09/12/2015(Xem: 7211)
Theo đa số các nhà nghiên cứu, thực trạng nóng lên toàn cầu (global warming) hoặc biến đổi khí hậu toàn cầu (global climate change) là có thật và ngày càng gia tăng một cách trầm trọng. Nguyên nhân chính là sự gia tăng quá nhanh trong việc thải khí cạc-bon đi-ô-xít (carbon dioxide) trong vòng 30 năm qua do đốt nhiên liệu hóa thạch, fossil fuels (Cox, P. M., et al., 2000), cũng như những hoá chất khác không phải do hoá học hữu cơ (Hansen, J., et al., 2000), và vì nhu cầu sinh hoạt của con người từ sự nhả khói và khí độc của các hãng xưởng công nghệ lớn nhỏ, xe ô-tô cho đến nạn phá rừng, các trại chăn nuôi súc vật đến chất liệu phế thải của các nhà máy thuỷ điện, v.v...
26/09/2015(Xem: 6796)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
24/06/2015(Xem: 26760)
Lời vàng của Thầy tôi, một Hướng dẫn vào các sự Chuẩn bị cho Tâm-yếu của Phạm Vi Bao La từ Đại Viên Mãn, trình bày các con đường của bốn trường phái chính của Phật Giáo Tây Tạng mà không có bất kỳ mâu thuẫn nào giữa chúng.
18/06/2015(Xem: 14170)
Có khoảng năm trăm triệu Phật tử trên thế giới, đạo Phật được coi là tôn giáo lớn đứng thứ tư của hành tinh. Với hai tông phái chính: Theravada (Phật giáo Nguyên thủy) và Mahayana (Phật giáo Đại thừa) cùng nhiều môn phái khác, đạo Phật có một điểm chung là sự giác ngộ, là tinh thần được tự do. Nhiều nhà nghiên cứu khẳng định đạo Phật là tôn giáo của hòa bình. Con đường của đạo Phật là quá trình nhận biết đau khổ, nguyên nhân khổ đau và kết thúc nó với đích cuối cùng là được giải thoát.
15/06/2015(Xem: 20019)
Yếu chỉ tu tập & hành đạo. Tác giả Thích Thái Hòa
15/05/2015(Xem: 22766)
Thể theo lời yêu cầu của các bạn Đạo, tôi chọn một số bài nói chuyện về Phật pháp của tôi tại Tổ Đình Từ Quang ở Montréal và một vài nghi thức tụng niệm để in thành cuốn sách này, với hy vọng phổ biến Phật pháp. Cuốn sách được hình thành trong dịp Tết Canh Thìn, nhưng phải đợi đến Tết Dương Lịch 2001 mới đánh máy xong. Trong thời gian chờ đợi này, tôi đã cẩn thận kiểm điểm lại nội dung từng bài, nhưng chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, những mong các bậc cao minh từ bi chỉ điểm cho. Montréal, Tết Dương lịch 2001 Hiển Mật, Đỗ Hữu Trạch
12/05/2015(Xem: 18528)
Video: Những Hiểu Lầm về Đạo Phật
01/05/2015(Xem: 24945)
Một tập sách với tựa đề như trên, trong xã hội hiện nay, không có gì đặc biệt; so với Kito giáo tại Việt Nam, cũng là việc làm bình thường, vì hàng năm, một số giáo xứ thường xuyên tổ chức các lớp hướng dẫn giáo lý và hôn nhân cho thế hệ trẻ từ tuổi 18 trở lên; nhưng đặc biệt của tập sách nầy nằm trong hai lĩnh vực: 1/ Phật giáo chưa từng xuất hiện sách hoặc lớp hướng dẫn về hạnh phúc gia đình, mặc dù có những kinh điển nói qua vấn đề nầy, quá tổng quát, chưa thích ứng với từng cảnh trạng của từng xã hội biến thái khác nhau hiện nay. 2/ Sách không trực tiếp dạy giáo lý như các lớp “giáo lý và hôn nhân” của các giáo xứ, nhất là giòng Tên; nhưng sách hướng dẫn tháo gỡ nhiều vấn đề mắc mứu liên quan đến tâm lý xã hội và đạo đức nhà Phật.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567