Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tu Sĩ Chưa Phải Là Phật

17/05/202316:18(Xem: 5046)
Tu Sĩ Chưa Phải Là Phật

tu si phat giao

20,000 đệ tử khắp nơi trên thế giới về dự lễ giỗ Trưởng Lão Hòa Thượng Ajahn Chah (1918-1992)

vào ngày 16/1 hằng năm; Ngài Ajahn Chah là vị đại sư Thái Lan có hơn 1 triệu đệ tử trong và ngoài quốc gia Thái Land

 

Tu Sĩ Chưa Phải Là Phật

            Hiện nay có một hiện tượng đáng ngại là một số tu sĩ thuyết pháp có một số tín đồ nghe theo, hoặc là trụ trì, trở nên vô cùng ngã mạn có những hành động, cử chỉ, lời nói khinh mạn tín đồ và tự cho mình đã chứng đắc có khi còn hơn cả Phật. Câu hỏi đặt ra là: Là trụ trì, hoặc thuyết pháp có cả triệu tín đồ đi theo, phát hành cả trăm băng đĩa, như thế đã là Phật chưa?

            Xin thưa, tu sĩ là người xuất gia không còn dính líu tới gia đình, gia nhập tăng/ni đoàn để học hỏi giáo lý của Đức Phật và làm theo lời dạy của Phật tức là tu sửa. Họ là đệ tử của Phật chứ không phải Phật cho dù họ có là đại thánh tăng, đại sư thuyết pháp. Một số nhà báo Tây Phương đã gọi Đức Đạt Lai Lạt Ma là Phật Sống nhưng ngài nói rằng đừng có bậy bạ gọi tôi là Phật Sống (Living Budha) mà tôi chỉ là đệ tử của Đức Phật. Giảng dậy, truyền bá giáo lý của Đức Phật chỉ là tu sĩ chứ không phải Phật dù nói hay nói giỏi cách mấy dù có cả triệu người đi theo.

            Phật là bậc đã thành đạo và không phải tu nữa. Khi Thái Tử Tất Đạt Đa còn đang tu, các đạo sĩ Bả La Môn gọi thái tử là Đạo Sĩ Cù Đàm. Khi Đức Phật thành đạo thì danh xưng Đạo Sĩ Cù Đàm biến mất và tất cả chúng sinh  cõi Trời và Cõi Người kể cả tu sĩ Bả La Môn đều gọi ngài là Phật và khi thưa thỉnh thì nói, “Bạch Thế Tôn” hay “Thế Tôn Hi Hữu”. Khi còn mang các danh xưng như: Tăng Thống, Pháp Chủ, Đại Lão Hòa Thượng, Ni Trưởng, Thượng Tọa, Đại Đức, Sư Cô…thì vẫn là người còn đang tu…chưa đắc quả, chưa phải là Phật, Bồ Tát hay A La Hán. Khi đắc quả rồi thì không còn mang các danh xưng đó nữa. Khi đó sẽ gọi: Ngài A La Hán A, Ngài Bồ Tát B, Đức Phật Di Đà, Đức Phật A Súc Bệ, Đức Phật Nhiên Đăng, Đức Phật Thích Ca v.v..

            
Tu sĩ vẫn là phàm phu với tất cả đam mê và dục vọng của con người mà các nhà bình luận Hoa Kỳ nói rằng “Priests are human beings” khi loan tin về các giáo sĩ rửa tiển, sống đời xa hoa và phạm tội dâm ô với trẻ em.Tu sĩ chỉ khác với phàm phu là họ đang trên bước đường tu hành theo lời Phật dạy. Lịch sử Phật Giáo cho thấy dù có dùng cả sinh mạng quyết tử của mình để tu, thì vô lượng kiếp nữa mới thành Phật, A La Hán hay Bồ Tát. Trong Thiền Luận, Đại Sư Suzuki nói rằng A La Hán Thừa, Bồ Tát Thừa, Phật Thừa đều là ảo vọng. Thế nhưng với tinh thần của Bát Nhã Tâm Kinh thì trong Hữu đã tiềm tàng Vô và trong Vô đã tiềm tàng Hữu. Có một vị Bồ Tát đã xuất hiện giữa Thế Kỷ XX, đó là Bồ Tát Thích Quảng Đức. Sự kiện Bồ Tát Thích Quảng Đức ngồi tĩnh tọa trong biển lửa đã khiến thế giới rúng động và kinh ngạc và gọi ngài là “Bậc Đại Định”. Khi còn nghĩ đến tiền bạc, chức vụ, bằng cấp, thú vui, hát Karaoke, tối ngày chúi mũi vào i-phone, i-pad xem các chương trình giải trí, ca nhạc, hề chọc cười thiên hạ…thì làm sao có thể đại định để ngồi tĩnh tọa trong biển lửa? Thi sĩ Vũ Hoàng Chương đã tán dương cuộc tự thiêu của ngài Quảng Đức qua những vần thơ:

Ôi  ngọn lửa huyền vi!
Thế giới ba nghìn phút giây ngơ ngác

Chỗ Người ngồi: một thiên thu tuyệt tác
Trong vô-hình sáng chói nét TỪ-BI.

            
Xin nhớ cho, Đức Phật là vị đã thành đạo quả rồi cho nên rủ lòng từ bi mà giảng pháp để cứu vớt chúng sinh.

-Đức Phật đã rũ sạch lòng tham cho nên giảng dạy cho chúng sinh cách trừ bỏ lòng tham.

-Đức Phật đã không còn dính líu một chút sân hận nào cho nên giảng dạy chúng sinh từ bỏ lòng sân hận.

-Đức Phật đã từ bỏ tất cả các si mê, quyến rũ của cõi đời này cho nên giảng dạy cho chúng sinh cách trừ bỏ đầu óc si mê.

-Đức Phật đã phá bỏ tự ngã – nguyên do của mọi tội ác và phiền não cho nên giảng dạy cho chúng sinh phá chấp, phá bỏ tự ngã.

-Đức Phật đã diệt trừ được lòng kiêu căng phách lối cho nên giảng dạy chúng sinh cách phá bỏ tính kiêu mạn.

            Nương theo gương Đức Phật, tôi mạo muội đề nghị.

-Quý tăng/ni nào thực sự đã từ bỏ được lòng tham thì mới nên đăng đàn thuyết pháp giảng dạy Phật tử từ bỏ lòng tham.

-Quý tăng/ni  nào thực sự đã từ bỏ được máu sân, máu hận thì mới nên đăng đàn giảng dạy Phật tử từ bỏ tính sân hận.

-Quý tăng ni nào thực sự đã từ bỏ được tính đam mê như đam mê sắc đẹp, tiền bạc, chức vụ, ca hát, vui chơi giải trí, các trò thể thao như đá bóng, các món hàng mới đắt tiền…thì mới nên đăng đàn thuyết pháp dạy dỗ Phật tử từ bỏ tính si mê.

-Quý tăng/ni nào thực sự đã phá bỏ được tự ngã và tính kiêu mạn thì hãy đăng đàn giảng dạy Phật tử đừng có kiêu căng phách lối. Kiêu căng phách lối là nguồn gốc của nhiều tai họa và bị người đời khinh ghét.

           
 Thật không có gì tức cười cho bằng một ông bác sĩ ho sù sụ mà lại cho thuốc chữa ho cho bệnh nhân. Bản thân mình còn ho, thuốc chữa không hết thì làm sao chữa trị được bệnh nhân? Ông/bà bác sĩ nào làm như thế là tự lừa dối mình và dối người.

           
 Ngàn đời nay, “Tri dị, hành nan”. Nghiên cửu kinh điển, thuyết pháp, đậu bằng tiến sĩ Phật Học thì dễ, nhưng thực hành theo lời Phật dạy thì muôn vàn khó khăn. Ai cũng có thể là tín đồ của Phật, nhưng tu theo Phật thì khó lắm. Tham-Sân-Si gắn chặt vào não tủy, làn da sớ thịt  con người. Nó là nghiệp lực từ vô thủy của chúng sinh. Hiện nay Tham-Sân-Si mỗi lúc mỗi phình to ra và nó là thứ vô cùng hấp dẫn và là lạc thú của con người. Với sự bùng nổ của kỹ nghệ truyền thông, mọi thú vui, mọi trò hấp dẫn có thể chui vào cả phòng khách, phòng làm việc, phòng ngủ của người ta, cả chùa và trường học. Con người tìm kiếm lạc thú như thiêu thân lao vào ánh lửa. Từ bỏ nó rất khó cho nên tôi mạo muội đề nghị quý tăng/ni hãy bớt nói, bớt dạy dỗ chúng sinh, bớt thuyết pháp và tập trung hết nghị lực và trí tuệ để tu thân, để chống đỡ lại Tham-Sân-Si. Chỉ khi nào thấy mình chứng đắc thì mới đăng đàn thuyết pháp, dạy dỗ chúng sinh. Xin nhớ cho tăng/ni chỉ là đệ tử của Đức Phật, khi thuyết pháp phải luôn luôn nói, “Trong kinh này, Đức Phật dạy như thế này…” Đừng có nhập nhằng như thể những điểu giảng dạy đó là của mình, của tôi “sáng chế” ra. Dĩ nhiên tu sĩ có quyền đưa ra những kinh nghiệm riêng trong việc tu hành để giúp quý Phật tử. Nhưng kinh nghiệm không phải là Kinh. Kinh là gốc là ánh sáng soi đường. Còn kinh nghiệm thì có nhiều thứ kinh nghiệm khác nhau. Thậm chí luận giải về kinh Phật của chư tổ cũng có nhiều luận giải khác nhau và chống đối nhau. Theo tôi thấy, các bậc tu hành chân chính bất kể pháp môn nào nếu đắc quả thường bình dị, khiêm tốn và dường như đã bỏ bớt được Tham-Sân-Si. Cố Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ - vị thánh tăng của thời đại nói rằng từ khi tu hành lúc mười mấy tuổi ngài chưa dùng của bố thí của đàn na thí chủ. Ngài tự cầy cấy lấy mà ăn. Ngài sợ tiền bạc. Giáo Hội mời ngài về ở chủa to ở Hà Nội ngài nói rằng tôi ở đây đã quen từ thuở nhỏ rồi. Còn chức vụ Pháp Chủ chỉ làm ngài lo lắng và phiền não hơn. Khi giảng dạy cho tăng/ni ngài nói rằng, “Không Giới-Định-Tuệ” thì lấy gì để giảng dạy Phật tử? Tất cả những điều đó cho thấy ngài đúng là vị thánh tăng của thời đại và đúng là trưởng tử của Như Lai và là mẫu mực cho đời sau.

ajahn chah
Vị thứ 3 từ bên trái: Trưởng Lão Hòa Thượng Ajahn Chah (1918-1992)

 

            
Quay trở lại với căn bệnh ngã mạn của tăng ni. Xin quý tu sĩ đừng nghĩ rằng “Đạo Phật là tất cả”. Đừng nghĩ rằng tôi tu theo Phật thì tôi sẽ trở thành bậc cứu nhân độ thế. Đức Đạt Lai Lạt Ma nói rằng Đạo Phật chỉ có thể làm được một số điều chứ không thể giải quyết được tất cả mọi chuyện trên thế gian này. Đạo Phật có thể xây dựng một nền tảng đạo đức cho dân tộc. Còn sự cường thịnh của một quốc gia cần có  hệ thống giáo dục tân tiến từ Tiểu Học đến Đại Học, phát triển kinh tế, khoa học, kỹ thuật, có chiến lược ngoại giao khôn ngoan và có vũ khí tối tân để bảo vệ đất nước. Đây là trách nhiệm của những vị lãnh đạo. Sự đóng góp của các học giả, các nhà trí thức, các tổ hợp óc (think tank) không phải tu sĩ - rất quan trọng. Một đất nước có cả triệu tu sĩ vẫn lạc hậu. Một đất nước có vài ngàn khoa học gia lỗi lạc sẽ thống trị nhân loại.

Tôi không rõ sau một ngày bận rộn với Phật sự như các khóa lễ, cầu siêu cho người chết, cầu an cho người sống, thuyết pháp… buổi tối quý tăng/ni làm gì? Thay vì chũi mũi vào i-phone, i-pad để thưởng thức các trận đá bóng ở trởi Tây, các chương trình ca hát, chọc cười thiên hạ đôi khi rất rẻ tiền và đủ loại trình diễn thời trang, thi hoa hậu, tuyển lựa ca sĩ, MC tán dóc…để gọi là “giải trí”. Tôi đề nghị quý tăng/ni sau khi cổng chùa khép lại, nên bỏ lại sau lưng tất cả những phiền trược, ảo ảnh của cuộc đời. Nên dành thời giờ để nghỉ ngơi và nhất là thực hành quán chiếu. Điều quán chiếu quan trọng nhất ở đây là quán Tứ Trọng Ân: Ơn Cha Mẹ, Ơn Thầy Cô, Ơn Đất Nước và Ơn Chúng Sinh.

            
Trong những giây phút vắng lặng nhất, quý vị hãy tự hỏi, hãy quán chiếu xem:

-Ngôi chùa hay tịnh xá mà chúng ta đang ở đây do ai xây dựng? Có phải do tiền bạc của tăng/ni hay cha mẹ bỏ ra để xây dựng hay do sự đóng góp của quý Phật tử và sự giúp đỡ của chính quyền? Hiện nay biết  bao nhiêu thông cáo xin Phật tử trong và ngoài nước đóng góp tiền bạc để xây chùa hay trùng tu lại chùa đã mục nát. Như vậy chùa đâu phải của tăng/ni mà là của bá tánh, của Phật tử.

-Chiếc giường với nệm ấm, chăn êm và cả máy điều hòa không khí mà chúng ta đang nằm đây do đâu mà có? Có phải do tiền bạc đóng góp của bá tánh không? Ngày xưa Đức Phật và các đại đệ tử của Ngài đâu có nệm ấm chăn êm như tăng/ni ngày hôm nay và phải ngủ ở dưới đất, dưới cội bồ đề, dưới tàng cây, hay trong hang núi, may mắn lắm mới có cỏ khô để lót.

-Bộ quần áo mà chúng đang mặc đây là do chính chúng ta làm việc cực khổ rồi bỏ tiền ra mua hay do Phật tử ban tặng?

-Bao nhiệu tiện nghi mà giáo hội và tăng ni được hưởng như: Điện nước, đường xá, cầu cống, xe cộ, máy móc. Những thứ đó do Đức Phật, chư Tổ, tăng/ni tạo ra hay do chúng sinh làm ra?

-Bầu không khí an ninh giúp quý tăng/ni an tâm tu hành, không bị cướp bóc, lấy đi thùng phước sương và có khi giết sư để lấy tiền, hãm hiếp cả ni cô. Điều tốt lành này do đâu mà có? Có phải do nhân viên an ninh, cảnh sát làm việc ngày đêm để bảo vệ sự an toàn cho dân chúng trong đó có cả tăng ni?

-Quán chiếu xa hơn nữa, đất nước này yên bình, không có chiến tranh, không bị ngoại bang xâm chiếm, phá tan đất nước, tiêu hủy chùa chiền, văn hóa dân tộc… có phải do binh sĩ luôn luôn canh phòng biên giới và biển đảo để quý vị đang ngồi hưởng đây? Nuôi dưỡng một đạo quân đầy đủ như thế là do tiền thuế của người dân đóng góp. Còn tu sĩ thì không phải đóng thuế.

           
 Trong cuộc sống hợp quần này, chúng ta nương tựa vào nhau để tồn tại. Không một ai có thể sống một mình. Tất cả những gì nói ở trên đều là ân nhân của chư tăng/ni. Mà đã là “ân nhân” của mình thì mình phải kính trọng. Cho nên thái độ kiêu mạn, khinh thường chúng sinh là thái độ sai trái đi ngược với giáo lý của Đức Phật và không thể chấp  nhận được. Trên trang tin Drukpa VietNam đã trích dẫn khai thị của Đức Kyabje Trulshik Adeu Rinpoche trong đó có đoạn, “Bước đầu tiên để phát khởi Bồ đề tâm là phải có sự tư duy rằng tất cả chúng sinh đều thực sự là cha mẹ của mình.” Trong một bài viết của Thị Giới đăng trên Thư Viện Hoa Sen đã có đoạn, Quán tất cả chúng sanh là mẹ, là một pháp quán trong việc phát triển tâm Bồ-đề.”

Và cư sĩ Nguyên Giác cũng đã trích dẫn kinh Tương Ưng Vô Thỉ (Anamatagga) II: Phẩm Thứ Hai như sau: Trú ở Sāvatthi. Vô thỉ là luân hồi này, này các Tỷ-kheo …Này các Tỷ-kheo, thật không dễ gì tìm được một chúng sanh, trong thời gian dài này, lại không một lần đã làm cha …Như thế trong đám chúng sinh này biết đâu một người nào đó là cha mẹ mình trong kiếp trước.Và trong Kinh Hoa Nghiêm, “Hằng thuận vỉ lợi ích chúng sinh là cúng dường chư Phật”.

            
Vậy thì mục tiêu tối hậu của tu sĩ không phải vì mình mà vì người. Cũng như binh sĩ hy sinh chiến đấu không phải vì mình mà vì đất nước. Sức mạnh ở phụng sự. Tăng/ni không phải là một chức vụ để ngồi đó thừa hưởng vái lậy và dâng cúng của Phật tử. Tăng/ni phải phục vụ Phật tử, phải phục vụ quần chúng qua thuyết giảng giáo lý của Đức Phật, lấy bản thân mình làm tấm gương. Dùng tiền của đàn na thí chủ để xây bệnh viện, cô nhi viện, các đại học và tập trung vào công tác cứu giúp người tật nguyền, nghèo khó, chia xẻ trách nhiệm xã hội với chính quyền.

           
 Ngày nay Phật chẳng còn tại thế, Bồ Tát, A La Hán cũng chẳng có…thì tăng/ni phải là biểu tượng sống động của Phật. Mà biểu tượng sống động chính là phẩm hạnh và đạo đức. Khi tăng/ni hư đốn thì đạo suy tàn. Khi không còn Phật tử thì đạo diệt. Đạo Phật suy tàn tại Ấn Độ là vì không còn Phật tử. Khi Phật tử không đến chùa nữa thì chùa thành nhà hoang. Khi thánh tích mà Phật tử không đến chiêm bái thì thánh tích cũng hoang phế.Vậy thì chớ coi thường Phật tử. Phật tử là gốc rễ, chùa là thân cây, tăng/ni là hoa trái. Ba yếu tố này kết hợp nhuần nhuyễn với nhau, để trở thành một cộng đồng Phật Giáo, một quốc gia Phật Giáo sinh tồn. Một quốc gia không còn dân thì quốc gia ấy diệt vong. Do đó mà Mạnh Tử nói, “Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh.”

             
Năm nay tôi đã 81 tuổi rồi, chẳng biết có còn sống tới ngày mai không. Tôi đã trải qua bao thăng trầm của lịch sử, vinh-nhục  đã nếm mùi, đã từng sống dưới chín tầng địa ngục. May nhờ Phật độ mà đầu óc còn minh mẫn, vì lòng chân thành, vì sự cao quý của Đạo Phật mà viết ra những điều như trên. Khác với Phật tử bình thường, các cư sĩ tu theo Phật không vì phước báu, không cầu xin, không vái lậy nhiều mà vì sự tuyệt vời của Phật Giáo. Giá trị của Phật Giáo được cả thế giới công nhận không phải là cầu siêu cho người chết và cầu an cho người sống và chết đi sẽ được vãng sinh Tịnh Độ. Giá trị của Đạo Phật là các đặc thù mà các đạo khác không có, đó là: Trí Tuệ, Từ Bi, Bình Đẳng và Hòa Bình.

            
Muốn giương cao giá trị của Đạo Phật, tăng/ni phải sống như thế nào để không phải chỉ Phật tử Việt Nam mà cả thế giới kính nể. Ngã mạn, coi thường Phật tử, coi chúng sinh như con cháu trong nhà là điều vô cùng lạc hậu và kém văn minh. Nếu “Vạn pháp đều bình đẳng” thì Phật, tu sĩ và chúng sinh đều cùng một pháp tính (Viên Giác) như lời tụng hằng ngày của chư tăng/ni:

Phật, chúng sinh tánh thường rỗng lặng.

Đạo cảm thông không thể nghĩ bàn.

            
Vậy thì người tu hành hãy kính trong chúng sinh và coi chúng sinh trong ba đời như cha mẹ mình. Kính trọng mọi người là phẩm hạnh cao quý. Người Hoa Kỳ không dùng câu châm ngôn “Tiên Học Lễ Hậu Học Văn” nhưng người ta dạy học trò “Be respectfull” tức hãy kính trọng mọi người.

            
Nam Mô Thường Bất Khinh Bồ Tát./.


Thiện Quả Đào Văn Bình
DaoVanBinh
Mời xem bài cùng tác giả

 
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
15/12/2017(Xem: 77507)
Trải hơn 25 thế kỷ, Chánh Pháp của Phật vẫn được tuyên dương và lưu truyền bởi hàng đệ tử xuất gia lẫn tại gia, đem lại giải thoát và giác ngộ cho những ai học hỏi và thực hành đúng đắn. Chánh Pháp ấy là thuốc hay, nhưng bệnh mà không uống thì chẳng phải là lỗi của thuốc. Trong kinh Di Giáo, đức Phật cũng ân cần huấn thị lần chót bằng những lời cảm động như sau: “Thể hiện lòng đại bi, Như Lai đã nói Chánh Pháp ích lợi một cách cứu cánh. Các thầy chỉ còn nỗ lực mà thực hành… Hãy tự cố gắng một cách thường trực, tinh tiến mà tu tập, đừng để đời mình trôi qua một cách vô ích, và sau này sẽ phải lo sợ hối hận.” Báo Chánh Pháp có mặt để góp phần giới thiệu đạo Phật đến với mọi người. Ước mong giáo pháp của Phật sẽ được lưu chuyển qua những trang báo nhỏ này, mỗi người sẽ tùy theo căn tánh và nhân duyên mà tiếp nhận hương vị.
15/12/2017(Xem: 122200)
Văn Hóa Phật Giáo, số 242, ngày 01-02-2016 (Xuân Bính Thân) Văn Hóa Phật Giáo, số 244, ngày 01-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 245, ngày 15-03-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 246, ngày 01-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 247, ngày 15-04-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 248, ngày 01-05-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 249, ngày 15-05-2016 (Phật Đản PL 2560) Văn Hóa Phật Giáo, số 250, ngày 01-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 251, ngày 15-06-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 252, ngày 01-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 253, ngày 15-07-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 254, ngày 01-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 255, ngày 15-08-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 256, ngày 01-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 257, ngày 15-09-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 258, ngày 01-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 259, ngày 15-10-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 260, ngày 01-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 261, ngày 15-11-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 262, ngày 01-12-2016 Văn Hóa Phật Giáo, số 263, ngày 15-12-2016
08/12/2017(Xem: 15855)
Những pháp thoại trong tác phẩm này là những lời dạy tiêu biểu truyền cảm hứng phi thường mà Lama Yeshe và Lama Zopa Rinpoche đã thuyết giảng tại nhiểu thời điểm. Các pháp thoại này là những gì truyền cảm hứng cho nhiều học trò của họ, như tôi, để buông xả những gì chúng ta đang làm và hiến dâng trọn đời mình đi theo các vị Lama[1]. Khi Rinpoche nói “mỗi người chúng ta cần nghỉ như vậy: tất cả chúng sanh đều vô cùng tử tế với tôi trong quá khứ, họ tử tế với tôi trong hiện tại, và họ sẽ tiếp tục tử tế với tôi trong tương lai. Họ là cánh đồng mà trong đó tôi nhận được tất cả hạnh phúc của mình—quá khứ, hiện tại và tương lai; tất cả các tài đức hoàn hảo của tôi đều xuất phát từ những chúng sanh khác. Do vậy, tôi phải chứng đạt giác ngộ. Chỉ tìm kiếm hạnh phúc miên viễn cho riêng tôi, không mang lại hạnh phúc cho những chúng sanh khác, từ bỏ những chúng sanh khác,không quan tâm đến hạnh phúc của họ, là rất ích kỉ. Do đó, tôi phải chứng đạt giác ngộ, hạnh phúc cao cả nhất, để
20/03/2017(Xem: 11054)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
22/12/2016(Xem: 24702)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 13437)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
30/04/2016(Xem: 15761)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 31849)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
26/01/2016(Xem: 12364)
Niết Bàn, tiếng Sanscrit là Nirvãna, phiên âm thành Niết-bàn-na. Cũng gọi là Nê-hoàn, Nê-bạn. Đó là cảnh trí của nhà tu hành dứt sạch các phiền não và tự biết rằng mình chẳng còn luyến ái. Niết (Nir): là ra khỏi, thoát ra, giải thoát. Bàn hay Bàn-na (vana): Rừng. Tức là ra khỏi cảnh rừng mê tối, rừng phiền não.
26/09/2015(Xem: 6864)
Cây bạch đàn là cây cao và có cành lá xum xuê nhất khu vực này. Tiếng chim kêu hót vang lừng mỗi sáng là từ trên những cành cao của cây này. Xa hơn, ở đầu đường, có hai cây cau dừa (cây cọ — palm tree), cao hơn cây bạch đàn nhiều, nhưng chim không làm tổ trên ấy (không hiểu vì sao; có lẽ vì cây quá cao, hoặc ở đó có nhiều tranh chấp, hiểm nguy hơn). Nơi cây bạch đàn, có ít nhất vài tổ chim, khác loại. Đúng là “đất lành chim đậu.” Có lần nghe tiếng quạ kêu bất thường, tưởng là quạ đến đuổi phá các loài chim khác, nào ngờ quạ bị chim đuổi. Rõ ràng là hai con chim trắng, thân nhỏ, lại rượt đuổi mấy con quạ đen to gấp ba lần. Không chỉ đuổi khỏi cây bạch đàn, mà đuổi thật xa, tít trên không trung, nhào lộn ngoạn mục, đuổi khỏi khu vực, đuổi khuất tận dãy phố bên kia đường. Thế mới biết, quạ tuy thân to lớn, bộ dạng dữ dằn, tiếng kêu rùng rợn ma quái so với các loài chim hiền lành khác, mà khi lâm trận thì lại không có chút dũng khí hay tinh thần chiến đấu nào. Quạ chỉ giỏi tấn công nhữn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567