Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo và tuổi trẻ.

09/04/201314:28(Xem: 4885)
Phật Giáo và tuổi trẻ.

minh_hoa_quang_duc (10)


Phật Giáo với tuổi thơ

Thích Thiện Bảo
--- o0o ---
ffs

Trong chiều hướng phát triển xã hội trên toàn thế giới ngày nay khi đề cập đến thiếu nhi mọi người luôn luôn nói :“ Tuổi thơ hôm nay là người chủ của tương lai”. Ơ ÛPhật giáo thì sao, Có đề cập và quan niệm thế nào về thiếu nhi, quan niệm của Phật như thế nào ?. Chúng ta hãy làn lược tìm một vài mẫu Pháp thọi hay bài kinh đề cập đến thiếu nhi và từ đó có một vài nhận định Phật giáo với Tuổi thơ. Ðối với Ðức Phật, Ngài không nói cụ thể như chúng ta ngày nay nhưng trong kinh A Hàm Ngài dạy các Thầy Tỳ Kheo có 4 điều không nên xem thường: Một đốm lữa nhỏ, một con rắn nhỏ, một Tu sĩ trẻ và một Thái tử ”. Những điều đó cho chúng ta thấy Ðức Phật rất coi trọng trẻ thơ hay nói cách khác một thế hệ trẻ vì chính những con người nầy là sức mạnh cho một ước vọng tương lai cuả tôn giáo nói riêng hay của cộng đồng xã hội nói chung. Một đốm lữa nhỏ có thể hủy hoại mọi công trình của nhân loại, một con rắn nhỏ có thể căn chết nhiều người nếu ai đụng đến nó, một vị Tu sĩ trẻ sẽ trở nên bậc tôn túc lãnh đạo, là lực lượng kế thưà cho sự phát triển Phật giáo và một vị Thái tử sẽ nối nghiệp vua cha trị vị đất nước. Tất cả bốn điều trên nếu một người có tầm nhìn cho chiến lược, phải biết kính nể không nên xem thường. Từ quan điểm của Ðức Phật cho chúng ta biết sự quan tâm của Ngài về mầm non tương lai cuả nhân loại và không phải chỉ đề cập 4 điều không nêm xem thường mà nhiều bài kinh, pháp thoại đã được ÐứcPhật đề cập xoay quanh thiếu nhi trong thời kỳ Ngài còn tại thế.

Một Pháp thoại kể về trẻ em: “ Một hôm Ðức Phật đi đến một ngôi làng với hình dáng hiền hòa và thân thiện của Ngài khiến nhiều trẻ con trong làng rất vui mừng và giành nhau để được nói chuyện với Ðức Phật. tướng mạo Ðức Phật vô cùng đẹp đẽ, ánh sáng rực rỡ chiếu khắp thân Ngài. Cậu bé Ba Ca Gia hết sức mến mộ Ðức Phật và hỏi: “Con phải làm thế nào mới có thể được (trở nên) như Ngài?” Ðức Phật vui vẻ trả lời: “Con nên tin lời Phật, không làm việc ác, tâm tính hiền hòa thì có thể thành Phật (như ta).” Ba Ca Gia hết sức mừng rỡ và xin theo Ðức Phật để học tập.

Ðối với nhi đồng, Ðạo Phật quan niệm phải giáo dục cho các em: Ở nhà, nên kính trọng các bậc tôn trưởng, hiếu thuận với cha mẹ, mến yêu, nhường nhịn anh chị em. Ở trường, nên tôn trọng Thầy cô giáo, thương mến bạn đồng học và nghe theo sự dạy vổ hướng dẫn của Thầy Cô và nhà trường. Ðối với hàng xóm láng giềng nên vui hòa, thân thiện, biết kính trên nhường dưới . Bất cứ ai, nếu rủi gặp phải điều không may, chúng ta nên thương xót, giứp đỡ. Ðó là những việc làm tốt mà ai cũng có thể làm được, dù đó là việc nhỏ, đúng là “ tuổi nhỏ làm việc nhỏ”.

Giáo dục là phương tiện tốt nhất trong nền giáo lý đạo Phật nhằm hướng tới tương lai, đào tạo, chuyển hoá là điều Phật giáo thường quan tâm đến mọi người, cho nên các vị tiền bối tổ sư thường dùng một số cụm từ như : “ tre tàn măng mọc” hoặc “ tục diệâm truyền đăng, tiếp dẫn hậu lai báo Phật ân đức”( đốt sáng ngọn đèn không cho tắt,tiếp dẫn người sau đó là báo ân đức của chư Phật). Tuy ngôn ngữ mỗi thời đại chuyển tải bằng những khái niệm khác nhau nhưng tất cả nhắm vào trọng tâm vì những thế hệ trẻ mầm non cuả tương lai.

Có một Pháp thoại được ghi trong kinh Bách Dụ nói lên tinh thần kiên trì của một em bé: “ Có một đoàn người đi buôn bị lạc giữa sa mạc mênh mông, nước uống đã hết, họ vô cùng lo lắng, hốt hoảng!. Do đó, cả đoàn cùng nhau đào giếng để tìm nước. Nhưng, vì thiếu lòng tin, nên mới đào được vài ba thước, chán nản không thấy nước, họ đã vội ngừng tay thôi đào và ngồi than khóc, trong số người ấy có một cậu bé, đầy lòng tin và giàu nghị lực, vẫn tiếp tục đã mãi. Cuối cùng, khi đang đào xuống sâu thêm thì mạch nước phun lên. Mọi người vừa mừng vừa xấu hổ với cậu bé.... Qua pháp thọai nầy chúng ta có thể thấy, nếu có lòng tin và nghị lực thì dù tuổi trẻ vẫn có thể thành công không phải chỉ có trưởng thành hoặc tuổi già. Chính vì thế mà Ðức Phật khuyên không nên xem thường và cần phải lo chăm sóc hơn nửa tuổi thơ. Không một quốc gia nào trên thế giới mà không đặt trọng tâm và chăm sóc thiếu nhi.

Nếu trẻ em được giáo dục tốt, có môi trường trong sạch thì chính các em là tấm gương tốt trong cư xử cũng như trong hành động đối với cha mẹ hay những người thân.

San là một người con rất hiếu thuận. Cha mẹ cậu vì quá già, không còn răng để nhai đồ ăn, nên thân thể ngày càng gầy yếu. Thấy vậy, San thầm nghĩ: “Cha mẹ mình già yếu quá, không ăn vật gì cả thì làm sao sống lâu được?” Thế rồi, San tìm ra được một cách: Cậu khoác lên mình chiếc áo da nai, đội đầu nai, giả vờ làm một con nai con; ngày ngày CẬU NAI này lên núi, lẫn lộn vào bầy nai và tìm cách vắt sữa nai đem về nuôi cha mẹ già. Ðức Phật khen San là một người con hiếu thuận, vì biết nghĩ đến công ơn sinh thành của Cha Mẹ”.

Trong thời kỳ Ðức Phật không có tổ chức thiếu nhi,không có luật về bảo vệ trẻ em, nhưng ở một đoạn kinh ghi lại cho chúng ta thấy sự quan tâm chăm sóc và bảo vệ thiếu nhi mà Ngài đã có những hành động can thiệp giáo dục, cảm hoá những con người xâm hại, bắt cóc trẻ em. Phật không lên án việc bắt cóc trẻ em là một trọng tội nhưng Ngài đem tinh thần “ lấy bụng ta suy bụng người” và Ngài dạy?. ..Nếu tôi không vui vẻ, thì kẻ khác cũng không vui vẻ khi tôi cướp đi của họ sự sống và sự sung sướng ấy. Không những thế phàm cái gì mình không ưa thích thì kẻ khác cũng không thích...

“Ở xứ nọ, có một người đàn bà chuyên nghề bắt trộm con nít. Ðức Phật biết được việc nầy nên Ngài cũng bắt đứa con của bà ấy đem đi mất. Khi trở về nhà, không tìm thấy con mình, bà gào khóc một cách thảm thiết. Nhân dịp này, Ðức Phật nói với bà rằng: “Khi mất con mình người đau khổ đến thế, vậy lúc người khác bị mất con lòng họ thế nào, người biết chăng?” Nhờ vậy, ngươi đàn bà ấy bừng tỉnh và thề với Ðức Phật từ nay nguyện xin bỏ hẳn nghề bắt trộm con nít.”

Ðức Phật cũng ca ngợi tinh thần dũng cảm, lòng tốt vì người của các em trong việc cứu người. Như vậy nếu khơi dây lòng tốt nơi các em chắc chắn lòng tốt đó được nhân lên gấp bội.Ðiếu nầy cũng cho chúng ta thấy đức Phật vận dụng một cách triệt đe åtâm ly thiếu nhi trong việc truyền bá giáo lý của Ngài : “ Rừng cháy, thế lửa quá mạnh, một con chim nhỏ may mắn thoát ra được. Nhưng vì nghĩ đến cha mẹ, anh em, bà con, bạn bè của nó còn bị kẹt lại trong khu rừng ấy nên chim nhỏ vô cùng khổ đau. Thế rồi nó liền bay xuống sông thấm ướt thân mình, sau đó lại bay trở về, vung rảy đôi cánh nhỏ nhoi và rưới những giọt nước cỏn con trên mình xuống khu rừng đang cháy. Cứ thế, không quản khó nhọc, chim nhỏ bay đi bay lại một cách tận tình. Do lòng tốt của con chim làm cảm động đến trời đất, nên một trận mưa lớn đã bất ngờ đổ xuống và dập tắt được đám cháy kia.

Người Việt Nam chúng ta cũng có những câu chuyện mang tính giáo dục cao nhằm nhắc nhở con cháu phải nghe lời cha mẹ. Thật vậy, việc giáo dục thiếu nhi là việc không thể thiếu, trong đó hoàn cảnh, môi trường là yếu tố hết sức quan trọng .“Trước khi ra khỏi nhà để tìm kiếm đồ ăn, công mẹ đã cẩn thận dặn dò công con là đừng nên bỏ nhà ra ngoài rong chơi. Nhưng khi công mẹ vừa đi thì công con đã vội quên lời dặn, bỏ nhà để đi đùa chơi với bè bạn. Chúng ăn trái trên cây, uống nước dưới khe, rồi cùng nhau vui đùa nhảy nhót một cách rất sung sướng trên đồi cỏ xanh. Kết qủa, cả bầy công con đã bị người thợ săn dùng lưới bắt hết. Bấy giờ công con kia mới biết mình sai. Nó vừa khóc, vừa tỏ vẻ ân hận, nhưng ăn năn thì sự đã rồi.! “Cá không ăn muối cá ươn, Con cưỡng cha mẹ trăm đường con hư”.

Ðức Phật cũng đề cập đến thói hư tật xấu của thiếu nhi cần phải chưà bằng câu chuyện đầy ý nghĩa mà chúng tôi nghĩ rằng nó hoàn toàn phù hợp với độ tuổi và tâm lý các em.Qua câu chuyện Ngài khuyên tất cả các em và ngay cả đối với người, ơÛ đời, tính tình nóng nảy quả thật là một cái tật xấu hết sức tai hại mà chúng ta cầm phải chừa bỏ. Ðây tuy là câu chuyện ngụ ngôn nhưng mang trong nội dung tinh thần giáo dục : “ Có một con rùa nóng tính sống lâu năm trong một cái ao. Gặp lúc trời hạn, nước ao khô cạn, rùa muốn đổi chỗ ở liền nhờ một cặp vịt trời giứp đỡ. Vịt dùng một cành cây, bảo rùa cắn vào giữa, rồi mỗi con vịt gắp một đầu để mang rùa sang nơi khác. Trước khi bay, đôi vịt tốt bụng đã dặn dò kỹ với rùa rằng: “Trong khi chúng tôi đang bay trên cao, anh tuyệt đối không được nói năng điều gì hết!” Thế nhưng, khi dưới đất có một bọn con nít nhìn thấy cảnh lạ lùng ấy liền vỗ tay reo cười. Gã rùa không dằn được cơn giận nên mở miệng mắng lũ trẻ. Song khi rùa vừa mở miệng thì lập tức bị rớt xuống, va đầu vào đá và chết ngay” .
Những pháp thoại được Ðức Phật đề cập trên cho chúng ta những người đang đi theo con đường cuả Phật thấy rằng, trong thời đại Ngài việc quan tânm đến thiếu nhi không được quốc tế hay quốc gia làm thành một chánh sách hay luật như ngày nay nhưng Ðức Phật luôn luôn quan tâm,bằng nhiều phương cách khác nhau giáo dục, chăm sóc trẻ em với tâm từ của một con người mà mọi người tôn xưng là giáo chủ. Có thể nói việc làm của Phật đã nói lên tinh thần của Ngài về chăm sóc và bảo vệ trẻ em.

Ngày nay, việc soạn thảo chương trình Phật học cho thiếu nhi nói riêng và từng độ tuổi khác nhau chưa được Phật giáo quan tâm đúng mức, có chăng chúng ta chỉ có sinh hoạt có tính chuyên như : ngành Oanh, ngành thiếu.... trong GÐPT còn các ngành có tính giáo dục hướng dẫn tu tập cho quãng đại quần chúng để họ ,ứng dụng Phật học vào đời sống như Hoằng Pháp, Nam nữ Phật tử chưa có một chương trình giảng dạy rõ ràng nhằm góp phần cùng với xã hội làm tốt vai trò của một tôn giáo lớn trong bối cảnh hiện nay.Chúng tôi thiết nghĩ, nếu sự có mặt của Phật giáo Việt nam là một nhu cầu cần thiết có ích cho cộng đồng thì phương thức sinh hoạt, truyền bá Chánh Pháp phải được đa dạng bá, chuyển đổi hay nói như ngày nay “ XÃ HỘI HÓA”.Người lãnh đạo Giáo hội có tâm huyết không thể không suy nghĩ về trọng trách của mình trước hoàn cảnh xã hội và cũng là trước tiền đồ Phật giáo Việt Nam về phương thức truyền bá chánh Pháp của tôn giáo mình trong bối cảnh thực tế của đời sống xã hội Việt nam.


--- o0o ---

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11590)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12070)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14932)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11778)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16510)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12480)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7764)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19943)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11601)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
23/03/2020(Xem: 10259)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567