Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

05

09/10/201116:04(Xem: 6324)
05

KRISHNAMURTI
CUỘC ĐỜI TRƯỚC MẶT
Lời dịch: Ông Không

PHẦN MỘT

V

C

húng ta đã nói chuyện ba hay bốn lần trước đây về sợ hãi; và bởi vì nó là một trong những nguyên nhân cơ bản của sự thoái hóa của chúng ta, tôi nghĩ chúng ta nên thâm nhập nó từ một góc độ khác, một quan điểm khác.

Bạn biết, chúng ta luôn luôn được chỉ bảo phải suy nghĩ cái gì và không suy nghĩ cái gì. Những quyển sách, những giáo viên, những cha mẹ, xã hội quanh chúng ta, tất cả đều chỉ bảo chúng ta phải suy nghĩ cái gì, nhưng họ không bao giờ giúp đỡ chúng ta tìm ra suy nghĩ như thế nào. Biết suy nghĩ cái gìlà điều tương đối dễ dàng, bởi vì từ thời niên thiếu những cái trí của chúng ta đã bị quy định bởi những từ ngữ, bởi những cụm từ, bởi những thái độ và những thành kiến được thiết lập. Tôi không biết liệu bạn nhận thấy những cái trí của những người lớn tuổi đã bị cố định như thế nào; chúng đã bị kết lại như đất sét trong một cái khuôn, và thật là khó khăn để phá vỡ cái khuôn này. Cái khuôn này của cái trí là tình trạng bị quy định của nó.

Ở Ấn độ này, bạn bị quy định để suy nghĩ trong một cách nào đó bởi hàng thế kỷ của truyền thống; tình trạng bị quy định của bạn có những nguyên nhân thuộc kinh tế, thuộc xã hội và thuộc tôn giáo. Ở Châu âu cái trí bị quy định trong một cách hơi hơi khác biệt; và ở nước Nga, từ cuộc cách mạng, những người lãnh đạo chính trị đã bắt đầu quy định cái trí trong một cách hoàn toàn khác biệt. Vì vậy, khắp mọi nơi cái trí đều đang bị quy định, không chỉ một cách hời hợt, một cách nhận biết được, nhưng cũng còn sâu thẳm. Cái trí bên trong hay cái trí che giấu bị quy định bởi chủng tộc, bởi khí hậu, bởi những bắt chước không từ ngữ và không biểu lộ.

Lúc này, cái trí không thể được tự do chừng nào nó vẫn còn bị đúc khuôn hay bị quy định. Và hầu hết mọi người đều nghĩ rằng bạn không bao giờ có thể làm tự do cái trí khỏi tình trạng bị quy định của nó, rằng nó luôn luôn phải bị quy định. Họ nói rằng bạn không thể ngăn cản để không có những cách suy nghĩ nào đó, những thành kiến nào đó, và rằng không thể có giải thoát, không thể có tự do cho cái trí. Thêm nữa, nền văn minh càng cổ xưa bao nhiêu, trọng lượng của truyền thống, của uy quyền, của kỷ luật mà đè nặng lên cái trí càng khủng khiếp bấy nhiêu. Ví dụ, những con người phụ thuộc vào một chủng tộc cổ xưa, như ở Ấn độ, bị quy định nặng nề hơn những con người sống ở Mỹ, nơi có sự tự do thuộc xã hội và kinh tế nhiều hơn, và nơi những con người vừa mới là những con người khai phá.

Một cái trí bị quy định không bao giờ được tự do bởi vì nó không bao giờ có thể vượt khỏi những biên giới riêng của nó, vượt khỏi những rào chắn mà nó đã thiết lập quanh chính nó; điều đó hiển nhiên. Và rất khó khăn cho một cái trí như thế để tự làm tự do chính nó khỏi tình trạng bị quy định của nó và vượt khỏi, bởi vì tình trạng bị quy định này được áp đặt vào nó, không những bởi xã hội, nhưng còn bởi chính nó. Bạn ưa thíchtình trạng bị quy định của bạn bởi vì bạn không đủ can đảm vượt khỏi nó. Bạn bị kinh hãi bởi điều gì người cha hay người mẹ của bạn sẽ nói, bởi điều gì xã hội và vị giáo sĩ sẽ nói; thế là bạn giúp đỡ tạo ra những rào chắn mà giam giữ bạn. Đây là ngục tù mà trong nó tất cả chúng ta đều bị trói buộc, và đó là lý do tại sao cha mẹ của bạn luôn luôn đang bảo bạn – như luân phiên bạn sẽ bảo con cái của bạn – làm cái này và không làm cái kia.

Điều gì thông thường xảy ra trong một trường học, đặc biệt nếu bạn ưa thích giáo viên của bạn? Nếu bạn ưa thích giáo viên của bạn, bạn muốn theo sau anh ấy, bạn muốn bắt chước anh ấy; thế là tình trạng bị quy định của cái trí của bạn mỗi lúc một trở nên vững chắc, cố định. Ví dụ, bạn ở trong một khu nhà cùng một giáo viên luôn luôn thực hiện nghi thức tôn giáo mỗi ngày. Bạn ưa thích trình diễn của nó, hay vẻ đẹp của nó, thế là bạn cũng bắt đầu thực hiện nó. Nói cách khác, bạn đang bị quy định thêm nữa; và quy định như thế rất hiệu quả, bởi vì khi người ta còn trẻ, người ta rất háo hức, rất dễ bị ảnh hưởng, rất dễ bắt chước. Tôi không biết liệu bạn có sáng tạo – có thể không, bởi vì cha mẹ của bạn sẽ không cho phép bạn vượt khỏi bức tường, họ không muốn bạn quan sát vượt khỏi tình trạng bị quy định của bạn. Vậy là, bạn kết hôn và ra khỏi nhà và bị phù hợp vào một cái khuôn, và ở đó bạn bị cột chặt suốt phần còn lại thuộc sống của bạn.

Khi bạn còn trẻ, bạn dễ dàng bị quy định, bị định hình, bị ép buộc vào một khuôn mẫu. Người ta nói rằng nếu một đứa trẻ – một đứa trẻ tỉnh táo, thông minh, tốt lành – được đào tạo bởi một giáo sĩ chỉ trong bảy năm, đứa trẻ sẽ bị quy định sâu thẳm đến độ suốt phần còn lại của cuộc đời cậu ấy, tại cơ bản cậu ấy sẽ tiếp tục trong cùng một cách. Điều đó có thể xảy ra trong một trường học thuộc loại này, nơi chính những giáo viên không được tự do khỏi tình trạng bị quy định. Họ cũng giống như mọi người khác. Họ thực hiện những nghi thức của họ, họ có những sợ hãi của họ, ham muốn theo một đạo sư của họ; và bởi vì bạn được giáo dục bởi họ – và cũng bởi vì bạn có lẽ ưa thích một giáo viên đặc biệt, hay bởi vì bạn trông thấy một nghi thức đẹp đẽ và cũng muốn thực hiện nó – một cách không nhận biết được, bạn bị trói buộc trong sự bắt chước.

Tại sao những người lớn tuổi thực hiện những nghi thức? Bởi vì những người cha của họ thực hiện nó trước kia, và cũng bởi vì nó trao tặng họ những cảm thấy, những cảm xúc nào đó, nó khiến cho họ yên lặng phía bên trong. Họ đọc lên những câu kinh kệ nào đó, suy nghĩ rằng nếu họ không thực hiện việc đó mỗi ngày họ có lẽ bị lạc lõng. Và những người trẻ bắt chước họ, thế là sự bắt chước của bạn bắt đầu.

Nếu chính giáo viên nghi ngờ tất cả nghi thức này, nếu anh ấy muốn thực sự suy nghĩ về nó – mà chẳng mấy người đã từng thực hiện – nếu anh ấy muốn sử dụng thông minh của anh ấy để thâm nhập nó mà không có thành kiến, chẳng mấy chốc anh ấy sẽ phát giác rằng nó thực sự vô nghĩa. Nhưng để thâm nhập và khám phá sự thật của vấn đề cần đến nhiều tự do. Nếu bạn có sẵn thành kiến trong sự ủng hộ việc gì và sau đó tiến hành để thâm nhập nó, chắc chắn không thể có thâm nhập. Bạn sẽ chỉ củng cố thành kiến của bạn, xu hướng của bạn.

Vì vậy, rất quan trọng cho những giáo viên phải khởi sự tự cởi bỏ tình trạng bị quy định của chính họ, và cũng giúp đỡ em học sinh được tự do khỏi tình trạng bị quy định. Bởi vì hiểu rõ sự tác động bị quy định của cha mẹ, của truyền thống, của xã hội, giáo viên phải khuyến khích các em không chấp nhận một cách không suy nghĩ, nhưng chất vấn, thâm nhập.

Khi bạn lớn lên nếu bạn quan sát, bạn sẽ bắt đầu thấy vô số những ảnh hưởng đang đúc khuôn bạn như thế nào, bạn không được giúp đỡ để suy nghĩ như thế nào, nhưng lại được dạy bảo phải suy nghĩ cái gì. Rốt cuộc, nếu bạn không phản kháng chống lại qui trình này, bạn trở thành giống như một cái máy tự động, đang vận hành mà không có tánh sáng tạo, mà không có nhiều suy nghĩ khởi nguồn.

Bạn sợ hãi rằng nếu bạn không phù hợp vào xã hội, bạn sẽ không thể kiếm sống. Nếu người cha của bạn là một luật sư, bạn nghĩ rằng bạn cũng phải trở thành một luật sư. Nếu bạn là một cô gái, bạn cam chịu bị tống khứ đi lấy chồng. Vì vậy, điều gì xảy ra? Bạn khởi sự như một người trẻ cùng nhiều sức sống, và nhiệt huyết, nhưng dần dần tất cả những điều này bị hủy diệt bởi tác động bị quy định của cha mẹ và những giáo viên của bạn cùng những thành kiến, những sợ hãi và những mê tín. Bạn bị nhét đầy thông tin khi rời trường học và ra ngoài vào trong thế giới, nhưng bạn đã mất đi sinh lực để thâm nhập, sinh lực để phản kháng những dốt nát thuộc truyền thống của xã hội.

Bạn ngồi đây đang lắng nghe tất cả điều này – và việc gì sẽ xảy ra khi cuối cùng bạn đã vượt qua những kỳ thi cử nhân và cao học của bạn? Bạn biết rất rõ việc gì sẽ xảy ra. Nếu bạn không phản kháng, bạn sẽ chỉ giống như phần còn lại của thế giới bởi vì bạn không can đảm để làm ngược lại. Bạn sẽ quá bị quy định, quá bị đúc khuôn, đến độ bạn sợ hãi sáng tạo theo phương hướng riêng của bạn. Người chồng của bạn sẽ điều khiển bạn, hay người vợ sẽ điều khiển bạn, và xã hội sẽ chỉ bảo cho bạn việc gì bạn phải làm; vì vậy, thế hệ kế tiếp thế hệ, sự bắt chước tiếp tục. Không có sáng tạo thực sự, không có tự do, không có hạnh phúc; không có gì cả ngoại trừ cái chết dần dần. Ích lợi gì khi được giáo dục, học hành để đọc và viết, nếu bạn sẽ chỉ tiếp tục giống như một cái máy? Nhưng đó là điều gì cha mẹ của bạn mong muốn, và đó là điều gì thế giới mong muốn. Thế giới không muốn bạn suy nghĩ, nó không muốn bạn được tự do để tìm ra, bởi vì sau đó bạn sẽ là một công dân nguy hiểm, bạn sẽ không phù hợp vào khuôn mẫu đã được thiết lập. Một con người tự do không bao giờ có thể cảm thấy anh ấy phụ thuộc vào bất kỳ quốc gia nào, giai cấp nào, hay loại suy nghĩ nào. Tự do có nghĩa tự do tại mọi mức độ, xuyên suốt, và chỉ suy nghĩ theo một phương hướng đặc biệt không là tự do.

Vì vậy trong khi bạn còn trẻ, được tự do là điều rất quan trọng, không chỉ tại mức độ ý thức bên ngoài, nhưng còn sâu thẳm phía bên trong. Điều này có nghĩa bạn phải quan sát về chính bạn, nhận biết được mỗi lúc một nhiều về những ảnh hưởng mà tìm kiếm để kiểm soát và thống trị bạn; điều đó có nghĩa rằng bạn không bao giờ chấp nhận một cách không suy nghĩ, nhưng luôn luôn nghi ngờ, thâm nhập và phản kháng.

Người hỏi: Làm thế nào chúng tôi có thể khiến cho cái trí được tự do khi chúng tôi sống trong một xã hội đầy truyền thống?

Krishnamurti: Trước hết bạn phải có sự thôi thúc, sự đòi hỏi để được tự do. Nó giống như sự ao ước của con chim để bay được, hay của những dòng nước của con sông để được trôi chảy.Làm thế nào bạn có sự thôi thúc để được tự do này? Nếu bạn có, vậy thì việc gì sẽ xảy ra? Cha mẹ của bạn và xã hội cố gắng ép buộc bạn vào một khuôn mẫu. Liệu bạn có thể kháng cự họ? Bạn sẽ thấy khó khăn lắm, bởi vì bạn sợ hãi. Bạn sợ hãi không có một việc làm, không tìm được người chồng đúng hay người vợ đúng; bạn sợ hãi bạn sẽ chết đói, hay mọi người sẽ nói về bạn. Mặc dù bạn muốn được tự do, bạn sợ hãi, vì vậy bạn sẽ không kháng cự. Sợ hãi của bạn về điều gì người khác có lẽ nói, hay về điều gì cha mẹ của bạn có lẽ làm, khóa chặt bạn, và thế là bạn bị ép buộc vào cái khuôn.

Lúc này, liệu bạn có thể nói, ‘Tôi muốn biết, và tôi không lo sợ có bị chết đói hay không. Dù bất kỳ việc gì xảy ra, tôi sẽ đấu tranh chống lại những cản trở của xã hội thối nát này, bởi vì tôi muốn được tự do để tìm ra?’ Liệu bạn có thể nói điều đó? Khi bạn sợ hãi, liệu bạn có thể đương đầu tất cả những cản trở này, tất cả những áp đặt này?

Vì vậy, rất quan trọng phải giúp đỡ đứa trẻ từ cái tuổi mỏng manh nhất, thấy những hàm ý của sợ hãi, và được tự do khỏi nó. Khoảnh khắc bạn sợ hãi, có một kết thúc đối với tự do.

Người hỏi: Bởi vì chúng ta đã được nuôi nấng trong một xã hội được đặt nền tảng trên sợ hãi, liệu chúng ta có thể được tự do khỏi sợ hãi?

Krishnamurti: Liệu bạn nhận biết được rằng bạn sợ hãi? Nếu bạn nhận biết, làm thế nào bạn sẽ được tự do khỏi sợ hãi? Bạn và tôi phải tìm ra, vì vậy làm ơn suy nghĩ nó cùng tôi.

Khi bạn nhận biết được rằng bạn sợ hãi, bạn thực sự làm gì? Bạn chạy trốn nó, đúng chứ? Bạn đọc một quyển sách, hay ra ngoài dạo bộ; bạn cố gắng quên nó. Bạn sợ hãi cha mẹ của bạn, sợ hãi xã hội; bạn nhận biết được sợ hãi đó, và bạn không biết làm thế nào để giải quyết được nó. Thậm chí muốn quan sát nó bạn cũng rất sợ hãi, vì vậy bạn chạy trốn nó trong những phương hướng khác nhau. Đó là lý do tại sao bạn tiếp tục học hành và vượt qua những kỳ thi cho đến khoảnh khắc cuối cùng, khi bạn phải đối diện với sự kiện không thể tránh khỏi đó và hành động. Bạn cố gắng liên tục để tẩu thoát khỏi vấn đề của bạn, nhưng điều đó sẽ không giúp đỡ bạn giải quyết được nó. Bạn phải đối diện nó.

Ví dụ, bạn muốn trao sống của bạn cho cái gì đó mà bạn thương yêu thực sự, nhưng cha mẹ của bạn bảo cho bạn rằng bạn không được làm nó và đe dọa bằng việc khủng khiếp nào đó nếu bạn làm. Họ nói họ sẽ không cho bạn bất kỳ đồng bạc nào, và bạn sợ hãi. Bạn sợ hãi đến độ bạn không đủ can đảm để nhìn ngắm sợ hãi của bạn. Thế là bạn nhượng bộ, và sợ hãi tiếp tục.

Người hỏi: Tự do thực sự là gì, và làm thế nào người ta tìm được nó?

Krishnamurti: Tự do thực sự không là điều gì đó để tìm được, nó là kết quả của thông minh. Bạn không thể ra ngoài và mua tự do trong chợ. Bạn không thể kiếm được nó bằng cách đọc một quyển sách, hay bằng cách lắng nghe người nào đó giảng thuyết. Tự do hiện diện cùng thông minh.

Nhưng thông minh là gì? Liệu có thể có thông minh khi có sợ hãi, hay khi cái trí bị quy định? Khi cái trí của bạn có thành kiến, hay khi bạn nghĩ rằng bạn là một con người tuyệt vời, hay khi bạn rất tham vọng và muốn leo lên cái thang của sự thành công, thuộc trần tục hay thuộc tinh thần, liệu có thể có thông minh? Khi bạn quan tâm về chính bạn, khi bạn theo sau hay tôn thờ người nào đó, liệu có thể có thông minh? Chắc chắn, thông minh hiện diện khi bạn hiểu rõ và phá vỡ tất cả dốt nát này. Vì vậy bạn phải bắt đầu nó; và việc đầu tiên là nhận biết rằng cái trí của bạn không được tự do. Bạn phải quan sát cái trí của bạn bị trói buộc trong tất cả những điều này như thế nào, và vậy là có sự khởi đầu của thông minh, mà mang tự do. Bạn phải tìm được đáp án cho chính bạn. Ích lợi gì đâu nếu người nào đó được tự do trong khi bạn lại không, hay ích lợi gì đâu nếu người nào đó có lương thực trong khi bạn đang đói?

Để sáng tạo, mà là có sáng kiến khởi đầu thực sự, phải có tự do; và muốn có tự do phải có thông minh. Vì vậy, bạn phải thâm nhập và tìm ra điều gì đang ngăn cản thông minh. Bạn phải thâm nhập sống, bạn phải nghi ngờ những giá trị thuộc xã hội, mọi thứ, và không chấp nhận bất kỳ sự việc gì bởi vì bạn sợ hãi.


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/11/2021(Xem: 16686)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10615)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11748)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12208)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15087)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11964)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16792)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12599)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7852)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20240)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567