Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Việt Nam Và Tuổi Trẻ Âu Mỹ

22/06/201107:56(Xem: 2273)
Phật Giáo Việt Nam Và Tuổi Trẻ Âu Mỹ
PHẬT GIÁO VIỆT NAM VÀ TUỔI TRẺ ÂU MỸ
Minh Mẫn

Hiện nay, người Việt ở hải ngoại đã qua ba thế hệ, họ sớm hòa nhập với xã hội công nghiệp, nhất là tuổi trẻ thuộc thế hệ thứ ba. Vấn đề tôn giáo đối với thế hệ nầy gần giống như cư dân bản địa, còn chút gì chăng là do tính huyết thống của ông bà cha mẹ lưu truyền.

Năm 1975 và tiếp theo những năm sau đó, hàng loạt người bỏ nước ra đi với những phương tiện , hình thức và lý do khác nhau. Dù hòa nhập với xã hội mới, thế hệ đầu tiên vẫn không tránh khỏi khó khăn về ngôn ngữ, tập quán; chính vì thế mà trong lòng luôn hướng về quê hương, nơi còn những thân bằng quyền thuộc sống trong nghèo khó. Trên đất khách tha phương, họ cật lực lao động để ổn định cuộc sống và có dư để giúp ruột thịt quê nhà. Những năm sau đó họ đóng góp công tác từ thiện cho đồng bào các vùng sâu vùng xa thiếu tiện nghi vật chất; chính vì thế mà giếng đóng, cầu đường, học bổng, trường lớp vùng sâu vùng xa được họ dang tay thực hiện. Ngoài số ít có căn bản học vị và năng lực chuyên môn, đã thành đạt trên đất khách, đa phần còn lại là những người lớn tuổi, lao động phổ thông, chính vì thế mà mức thu nhập ngoài tầm kiểm soát không phải đóng thuế. Những người con theo họ từ Việt Nam hoặc ra đời tại Âu Mỹ, được tiếp cận văn hóa và nếp sinh hoạt xứ người, tuổi trẻ ấy dễ tiếp thu và nhanh chóng hòa nhập; tuy nhiên vẫn còn 50% bảo lưu truyền thống quê hương ông bà, vì thế giữ được nếp sông cổ truyền. Thế hệ thứ ba được ra đời, hoàn toàn sinh ra, lớn lên trên đất người, cha mẹ họ đã có 50% chịu ảnh hưởng tập quán sinh hoạt và giáo dục văn hóa bản địa, vì thế, lớp trẻ kế thừa hoàn toàn 90% được báo động là sẽ mất gốc Việt Nam, ít nói được tiếng Việt. Thế hệ trẻ ít có điều kiện sinh hoạt chung với ông bà cha mẹ. Các thành viên trong gia đình ít đoàn tụ với nhau trong mâm cơm hàng ngày, vì công việc đòi hỏi họ thường xuyên ít gặp nhau. Tuy nhiên, thế hệ trẻ nầy dễ thành đạt do được thừa hưởng tính thông minh và sự cần cù của một Việt tộc khi được giáo dục đào tạo theo một chương trình văn minh tiến bộ của Âu Mỹ. Chính vì thế, không ít trẻ trở thành ngôi sao trên nhiều lãnh vực như toán học, khoa học, y học…

Khi con cháu thành đạt làm đẹp mặt gia phong, ông bà đó, cha mẹ đó tạ ơn Trời Phật bằng cách đi chùa để cầu nguyện. Ngoài ra, những thế hệ thứ nhất và thứ hai, dù chưa có cháu con thành đạt, họ cũng có nhu cầu về tìn ngưỡng sau những ngày làm việc, để bớt trống vắng và nhớ quê. Họ gặp nhau cuối tuần dưới mái chùa để tìm thấy chút an ủi với đồng hương. Có nhiều chùa do Phật tử đóng góp xây dựng rồi thỉnh thầy về trụ trì. Với diện tích quá rộng lớn của nước Mỹ, dân số Việt kiều sống rãi rác khắp nơi, tu sĩ không đủ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng, vì vậy có những cuộc bảo lãnh từ Việt Nam qua hoặc các quốc gia khác vào. Cũng không hiếm những tu sĩ đi với diện thăm viếng, diễn giảng rồi ở lại luôn. Những trường hợp nầy, chùa trở thành nơi nương náu ban đầu để những tu sĩ trẻ tràn đầy ham muốn mọc cánh tung bay khi được một số Phật tử quý mến, yểm trợ có một cơ ngơi riêng biệt. Từ đây phát sanh lắm tệ nạn lạm dụng và chạy theo nguồn lợi của nếp sống thực dụng. Đó là trường hợp cá lẻ, phần lớn các tu sĩ trẻ tiếp thu văn hóa mới, có tầm nhìn và cách sống cởi mở hơn, vì thế tâm huyết hoằng pháp cho quần chúng người Việt có định hướng mà không còn bị áp lực chính kiến như quý thầy trước kia vào những năm trước. Tuy áp lực chính trị do một số phẩn uất, nhưng hầu hết các tu sĩ Phật giáo trẻ hiện nay trên đất Mỹ có khuynh hướng tu tập nghiêm túc hơn và chí nguyện hoằng truyền Phật Pháp tốt hơn.

chuavietnam-losangeles-contentPhật giáo du nhập vào đất Mỹ thông qua giới trí thức và các Thiền sư vào thế kỷ XX. Riêng người Việt đầu tiên có HT Thích Thiên Ân là người đem Phật giáo vào giới trí thức Âu Mỹ. Ngài thành lập ngôi chùa Việt Nam rất sớm vào năm 1970 tại California. Mặc dù Đài Loan, Triều Tiên đều có mặt tại Mỹ trước lâu, họ có trên ngàn ngôi chùa, nhưng không mấy hiệu quả trong việc hoằng pháp, vì vậy chỉ còn hơn vài trăm tự viện hiện nay, vì thế sinh hoạt không ảnh hưởng rộng đến xã hội. Đến khi Thiền sư T. Nhất Hạnh thành lập Làng Mai, tầm sinh hoạt của Tăng Thân bắt đầu lan tỏa khắp châu Mỹ, và nhất là đợt di dân tị nạn của người Việt, nhu cầu tôn giáo và tín ngưỡng đòi hỏi hệ thống sinh hoạt thiền môn để giải quyết khát khao tín ngưỡng của những kẻ xa quê, đồng thời ma chay cho người quá cố theo tập tục cổ truyền cũng trở nên bức thiết. Chính điều nầy cần các sư tụng niệm hơn là giảng dạy và tu tập.

Một khi các tu sĩ trẻ thành lập cơ sở thờ tự riêng, phải đối diện với bao khó khăn chứ không dễ dàng như quê nhà họ tưởng. Phần lớn họ mua nhà để thờ phượng như một tư gia. Ít có chùa xử dụng chuông trống như ở Việt Nam, vì bị hạn chế bởi luật pháp bảo vệ yêu cầu của cư dân bản địa, những chùa như Trúc Lâm ở Atlanta, Georgia, xa cách nhà dân nên có thể xử dụng chuông trống. Tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn, chùa Hoa Nghiêm ở VIRGINIA, đường Backlick. Fort Belvoir phải mất 5 năm xin phép xây dựng chính thức là một ngôi chùa. Do các Phật tử trí thức đứng ra thành lập. Một chùa hội như thế mà còn phải đối mặt với pháp lý và công nợ thì cá nhân một tu sĩ phải xoay xở để đóng thuế và bao nhiêu loại khoản phí khác, quả là một khó khăn, như vậy thì giờ đâu để tu học hoặc thăng tiến kiến thức học vị! Ngay cả nhà thờ là cơ sở tín ngưỡng cổ truyền bản địa, còn phải đóng cửa và chuyển nhượng vì không có tín đồ, không có thu nhập để đóng thuế.

Các tu sĩ đến Mỹ, một là trụ trì, hai là theo đuổi việc học, ba là diễn giảng, tu tập và nghiên cứu. Trụ trì gặp phải nhiêu khê như đã nói, việc hỷ cúng từ quần chúng có hạn vì mức sinh hoạt bản xứ quá cao, thu nhập phổ thông vừa đủ sau khi trừ bao nhiêu khoản phí như thuế má, bảo hiểm, tiết kiệm… Vả lại, với số tiền vài ngàn cúng cho chùa tại Mỹ, chả thấm vào đâu, cũng với số tiền đó đem về Việt Nam giá trị sẽ lớn gấp bội, vì thế họ dồn về V.N để cúng và là từ thiện. Các vị lớn tuổi mất sức lao động, tiền do con cháu chu cấp hạn chế. Tuổi còn đi làm, có thể tìm thêm việc phụ thì phải đóng thuế thu nhập. Cuối tuần họ đến chùa như một lối thoát ức chế tâm lý và nhu cầu tín ngưỡng. Các tu sĩ phải thông thạo khoa nghi để có thu nhập và gần gủi cộng đồng. Các chùa hội lập ra, mong có quần chúng tu tập đông, vừa giải quyết công nợ vay ngân hàng, vừa giúp cho quần chúng có nơi tu học, vì thế đòi hỏi các giảng sư có trình độ tương thích với bản xứ để thu hút tuổi trẻ, làm mới cách hoằng pháp mà tuổi trẻ hiện nay không cần đến kinh điển, chỉ cần học hiểu được giáo lý. Những tu sĩ đáp ứng được đòi hỏi như thế quả là rất hiếm. Các tu sĩ biết ngoại ngữ nói chuyện với tuổi trẻ, sống với tuổi trẻ, phải là những tu sĩ trẻ, điều nầy, phần lớn tu sĩ Việt Nam hiện nay thiếu trình độ.

Có những tu sĩ từ Việt Nam qua do sự thỉnh cầu, cũng chỉ là những tu sĩ quen cách diễn đạt trên bục giảng hơn là cách hòa nhập thân thiện bình đẳng của tuổi trẻ âu Mỹ. Những tu sĩ tốt nghiệp thế học, có thể đảm đương hoằng pháp theo phong cách mới, quả là hiếm hoi, chưa đủ 10 đầu ngón tay. Hiện nay cũng chỉ vài ba tu sĩ tuy không còn trẻ, cũng đủ khả năng thu hút một số lớp trung niên và người cao tuổi qua cách diễn đạt khôi hài, đúng hơn là trò giải trí chứ không thể xem là giáo dục chuyên sâu vào giáo lý hoặc hướng dẫn tu tập, một nhu cầu chính đáng của quần chúng tha hương hiện nay. Thỉnh thoảng một vài chùa có khóa tu, tạm đủ và đúng để tín đồ xem đó là pháp môn khả hữu mà sau khi ra về, họ còn có thể thực hiện trong cuộc sống thường nhật. Quần chúng mục đích giải thoát tâm linh chứ không phải trở thành cảm tình viên của tôn giáo hay chỉ là người thuần phục cung dưỡng. Như vậy, số tu sĩ đáp ứng nghi thức ma chay đã chưa thể phát triển Phật giáo trên đất nước tiến bộ như âu Mỹ, số tu sĩ đủ năng lực chuyển hóa quần chúng và giới trẻ đang thiếu trầm trọng, những tu sĩ chuyên tu và thực hành có hiệu quả để quần chúng nương tựa cũng đang là vấn đề chưa đáp ứng đủ hiện nay. Số vị chuyên tu, ít nằm trong lớp tu sĩ trẻ, phần nhiều là bậc lão thành đã kinh qua trường đời, chinh vì thế mà tâm họ thuần thành và chân chính, họ không tham cầu danh lợi, địa vị, họ không muốn sở hữu chùa chiền, họ ẩn mình để chuẩn bị hành trang cho cuộc sống kiếp sau; thời gian còn lại trên cỏi đời đối với họ rất quý mà thời trai trẻ họ đã phí phạm vô lý. Những bậc chuyên tu như thế, về mặt sinh hoạt, quả thật họ không giúp được gì cho cộng đồng người Việt, nhưng rất khả dụng cho từ trường tâm linh. Chính những nguyên nhân nầy, chùa mọc rất nhiều làm cho kinh tế và tài chánh của quần chúng phân tán mỏng, tỷ lệ nghịch với hiệu quả hoằng pháp, để rồi cộng đồng Phật tử không còn biết nương và tin vào ai trong khi mỗi tu sĩ cát cứ một lãnh địa khi mà ảnh hưởng chính trị bị áp đặt, và không thiếu những lãnh địa đó không ăn nên làm ra, họ lại bán như bán căn nhà bình thường, họ bỏ luôn tôn tượng, pháp khí cho kẻ mua nhà muốn vứt đâu thì vứt. Chưa nói đến áp lực chính trị phải hô hào ủng hộ chống đối để có đất sống. Cộng đồng Phật giáo Việt Nam trên đất Mỹ hiện nay như chợ trời bày đủ loại mặt hàng, quần chúng bất lực nhắm mắt chọn lựa giữa hàng chục tổ chức đoàn thể giáo hội...mặc dù có trên 600 ngôi chùa Việt khắp nước Mỹ.

Tóm lại, tuổi trẻ Việt Nam tại Âu Mỹ, tuy thành đạt trong xã hội, nhưng truyền thống tín ngưỡng tâm linh vẫn là điều ràng buộc theo huyết thống; sinh hoạt các chùa chưa đủ sức thuyết phục, các tu sĩ chưa thu hút được chúng qua giáo lý cao siêu. Phải mất nhiều năm nữa, lớp tu sĩ trẻ hấp thụ văn hóa và ngôn ngữ, tập quán bản địa mới giúp phát triển Phật giáo Việt Nam trên đất âu Mỹ, và đáp ứng thỏa mãn nhu cầu tâm linh của giới trẻ Việt Nam đang được cha mẹ ông bà cố duy trì truyền thống tộc Việt. Quý thầy Việt Nam trên đất Mỹ phải đối diện quá nhiều khó khăn, vừa áp lực chính trị, vừa áp lực kinh tế, vừa áp lực học vấn, vừa đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh và khoa nghi tôn giáo cho quần chúng trong khi phải đáp ứng những điều kiện khắc khe của luật pháp Hoa Kỳ về hội đoàn có lợi nhuận mà không xem tôn giáo là một mãng tách biệt như ở Việt Nam; Thế nhưng, quý thầy và quần chúng Phật tử vẫn luôn dành sự quan tâm cho đồng bào trong nước để chia xẻ một phần vật chất có được sau những năm tháng vất vả trên xứ người. Nhìn những vật dụng của quý thầy ở Mỹ, trong đó có cell phone, mới thấy giản dị so với các tu sĩ trong nước rất nhiều. Có những tu sĩ phải tìm việc làm để tự sống. Có đến mới thấy, hiểu, cảm thông cái khó của họ; những người còn sống trên quê hương, cứ nghĩ ai ở Mỹ cũng sung sướng giáu sang! Vật dụng chư Tăng còn như thế thì Phật tử tín đồ cũng không khá hơn là bao.

MINH MẪN
19/6/2011

Hình trên: Chùa Huệ Quang , TP. Santa Ana trong ngày lễ Vu Lan
Hình thứ nhì là hình Chùa Việt Nam TP. Los Angeles do Thầy Thích Thiên Ân khai sáng

Xem thêm:
PHẬT GIÁO VIỆT NAM ĐANG LỤI TÀN HAY KHỞI SẮC (?!)Trần Kiêm Đoàn
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
08/11/2021(Xem: 11403)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 11658)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14809)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11202)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16337)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12366)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7665)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19764)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11518)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
23/03/2020(Xem: 10194)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567