Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phần 04: Đại nguyện tầm thinh cứu khổ với 32 ứng thân của Bồ tát Quán Thế Âm, và Bồ tát Diệu Âm trong kinh Pháp Hoa.

07/11/202119:12(Xem: 7421)
Phần 04: Đại nguyện tầm thinh cứu khổ với 32 ứng thân của Bồ tát Quán Thế Âm, và Bồ tát Diệu Âm trong kinh Pháp Hoa.
Phat thuyet phap-2

QUYỀN THỰC

THÁNH ĐẠO VÀ PHẬT GIÁO
Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm


Phần IV
Đại nguyện tầm thinh cứu khổ với 32 ứng thân của Bồ tát Quán Thế Âm, và Bồ tát Diệu Âm trong kinh Pháp Hoa.

Hạnh nguyện cứu khổ ban vui của Bồ tát Quán Thế Âm xuất hiện trong vô số kinh luận. Kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn thứ 25, nói rất rõ Bồ tát Quán Thế Âm không những chỉ tầm thanh cứu khổ mà còn thị hiện 32 ứng hóa thân phù hợp để dạy bảo, cứu giúp chúng sinh. Con số 32 cũng chỉ là một con số tượng trưng, có thể là muôn triệu muôn ức lần thị hiện hơn thế nữa, tức thân hiện khắp nơi, nơi nào có chúng sinh thì nơi đó có Phật và Bồ tát dưới nhiều thân tướng khác biệt, đồng sự hoặc đồng hành, gọi là phổ môn thị hiện.

Phổ môn thị hiện là hoạt dụng du hí thần thông của chư Phật và Bồ tát, tự tại hóa hiện các giả danh giả tướng khác nhau để thuyết pháp độ sinh.

Trong Quán Âm Huyền Nghĩa Ký của Ngài Tri Lễ, tổ thứ 17 Pháp HoaTông, (960 – 1028), tức tập giải thích tác phẩm Quán Âm Huyền Nghĩa của Trí Giả Đại Sư, đã giải thích sơ lược mười nghĩa về phổ môn thị hiện là: 1. Nhân Pháp. 2. Từ Bi. 3. Phước Tuệ. 4. Chân Ứng. 5. Dược Châu. 6. Hiển Ẩn, 7. Quyền Thật. 8. Bổn Tích. 9. Duyên Liễu. 10. Trí Đoạn.

1/. Nhân Pháp:

Kinh nói: “Vì nhân duyên này mà gọi là Quán Thế Âm”, tức là nói về người trước, lại nói: “Nhờ năng lực phương tiện thị hiện Phổ Môn”, tức là nói về pháp mà con người ấy có khả năng thực hiện, nên nói là nhân pháp.

Xin trích dẫn ra đây những đoạn kệ nói về cơ duyên ứng hiện của Bồ tát Quán Thế Âm, trong phẩm Phổ Môn, kinh Pháp Hoa:

“Lúc bấy giờ Vô Tận Ý Bồ Tát
Áo bày vai đảnh lễ Đức Thế Tôn
Bạch lời rằng: Đại Bồ Tát Quán Âm
Xin Phật dạy nhân duyên sinh danh hiệu.
Phật dạy rằng: Đại bi tâm vi diệu!
Nghe lời than từ vô lượng chúng sinh
Người kính tin niệm nhất niệm xưng danh
Sức cảm ứng từ âm thanh mà hiện

Lòng vọng dục sân si như lửa đỏ
Sông ái ân vây bủa sóng vạn trùng
Mê sắc tài cuồng vọng giữa bể Đông
Thuyền phiêu bạt trên dòng sâu nghịch gió
Tâm mải miết tìm đường hoa, lối cỏ
Say men đời nghiêng bóng đổ lầm than
Rồi đường ma, nẻo quỷ tiếc đêm tàn
Chút phù bạc giam cầm như vô tận
Chấp nhân ngã, thị phi là oán tặc
Lòng dâm ô, kiêu mạn gốc mê lầm
Một lời kêu cầu danh hiệu Quán Âm
Thường cung kính tức tâm tâm như nhất
Trên tương hợp giác tâm đồng chư Phật
Dưới độ muôn loài mở ngục tử sinh
Cầu thân trượng phu trí dũng, hiền minh
Cầu thân nữ nét băng trinh như ngọc.
Vô Tận Ý! Quán Thế Âm thần lực
Chúng sinh nên hằng lễ lạy cúng dường
Nếu có người trì niệm Phật mười phương
Tâm cung kỉnh trọn đời không thối thất
Công đức sinh chẳng bao giờ mai một
Đồng như người một lần niệm xưng danh
Bởi vì sao? Phật đồng Phật, khác tên
Tánh đồng Tướng vô biên công đức tạng”.

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009)

2/. Từ Bi:

Đoạn văn sau đây nói về Bồ tát dùng lực từ bi làm phương tiện ứng thân mà hóa độ chúng sinh, tức Quyền pháp của Bồ tát, là một trong hai chủ đề của tập sách này:

“Ngài Vô Tận Ý chắp tay bạch Phật:
Quán Thế Âm ứng hiện cõi Sa Bà
Phổ độ sáu đường sinh tử lại, qua
Dụng phương tiện thế nào mà vô ngại?
Phật dạy rằng: Lực Từ vào biển ái
Đắc Kim Cang tam muội ứng muôn thân
Kẻ mê lòng khởi kiến chấp ngã, nhân
Hiện nghìn tướng hóa thân từ thực tướng
Ví có Bồ Tát vào Tam Ma Địa
Tu pháp môn vô lậu bậc Trung thừa
Hằng xa lìa phiền não, bỏ ghét, ưa
Liền thị hiện Phật thân mà thuyết đạo
Hàng hữu học đạt tịch minh thâm áo
Liền hiện thân Độc Giác thuyết minh kinh
Đoạn nhân duyên được thắng giải hiện tiền
Liền đem pháp đại bi mà thuyết giảng
Người trì giới tu hạnh môn nhập diệt
Đạt pháp Không, Tứ Thánh Đế Nhị thừa
Liền hiện thân giới, định, tuệ Thanh Văn
Thuyết liễu nghĩa khiến cho người giải thoát
Nếu có chúng sinh mến thân trong sạch
Liền hiện thân thanh tịnh của Phạm Vương
Nếu có người cầu cảnh giới Thiên cung
Thân Đế Thích lại vì người mà hiện
Nếu người cầu có được thân thần biến
Liền hiện thân Đại Tự Tại Thiên Vương
Nếu người cầu bay bỗng khắp mười phương
Liền hóa hiện thân Thiên Vương Tự Tại
Nếu người cầu thân anh hùng trí dũng
Liền hiện thân vị Thiên tướng cõi trời
Nếu như người muốn điều ngự bốn phương
Liền thị hiện Tứ Thiên Vương thân tướng
Nếu như người cầu thiên binh vạn tướng
Sai khiến quỷ thần, thống lĩnh Thiên cung
Liền ứng hiện thân Thái tử Thiên vương
Thuyết chánh pháp khiến được như ý nguyện
Nếu có người cầu hoàng cung ngọc điện
Liền vì người hóa hiện sắc thân vua
Nếu như người cầu thiên tứ vạn chung
Liền thị hiện ứng thân người trưởng giả
Nếu như người thích văn đàn tao nhã
Liền hiện thân cư sĩ luận đàm kinh
Nếu như người thích quản trị, điều hành
Liền ứng hiện thân Tể quan thuyết đạo
Nếu như người thích suy tầm số thuật
Liền hiện người tu hạnh Bà la môn
Nếu như người cầu trí tuệ cửa Không
Liền hóa hiện thân người tu tịnh hạnh
Nếu như có thiện nữ nhân, nam tử
Lòng kính tin ngũ giới nhất tâm trì
Liền hiện thân Ưu bà tắc, Ưu bà di
Thuyết thiện pháp khiến người mau thành tựu
Hóa hiện giai nhân gần ngôi Vương hậu
Hướng tâm người đoan chính chốn phòng loan
Nếu có người đồng nữ hoặc đồng nam
Trí tinh vẹn, liền ứng thân thuyết đạo
Nếu có chư Thiên biết thiên đình huyễn ảo
Liền hóa thân thiên nữ hoặc kim đồng
Như gấm thêu lụa dệt sắc mây lồng
Cõi phước báu có sinh thì có diệt
Nơi bể thẳm vẫy vùng đà thấm mệt
Loài rồng thiêng nay chẳng muốn trứng rồng
Liền ứng thân vào tận cửa long cung
Thuyết chánh đạo đổi thành thân trí hạnh
Loài quỷ dữ sinh tâm cầu thân tịnh
Liền tùy tâm ứng hiện cõi Dược Xoa
Nếu nhạc thần Đế Thích Càn Thát Bà
Bỏ ý tưởng chấp thân là cố định
Liền hóa hiện tương tợ thân thiện hạnh
Thuyết lời kinh như tháo củi mở lồng
Nếu như lòng sân hận cõi Thiên ma
Bỏ tâm chấp liền ứng thân cứu giúp
Nếu như Khẩn Na La thần âm nhạc
Nghe âm giai biết thực tướng âm thinh
Liền hóa thân tương tợ thuyết lời kinh
Chánh pháp tạng có đâu rời cung bậc
Nếu như đại mãng xà bỏ tâm hung độc
Nghe Phật danh liền quy niệm nhất tâm
Như tâm Từ liền tương tợ ứng thân
Thuyết đại pháp bỏ thân nhiều oán trược
Nếu như người thích vun bồi cội phước
Thích sinh thân qua lại cõi nhân gian
Sắc là niệm, niệm khởi ứng nghìn thân
Thuyết phước báu được thân người gặp Phật
Nếu có chúng sinh vô hình, vô hữu tưởng
Muốn thoát vòng ràng buộc của thức tình
Dòng vọng tâm như trường dạ minh minh
Liền ứng hiện tương tợ thân thuyết giảng”.

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

3/. Phước tuệ:

Muốn viên mãn thì cần phải tu hành, tu hành không ngoài phước tuệ. Trong pháp Lục Độ thì Phước tức là năm độ đầu, tức Bố thí, Trì giới, Nhẫn nhục, Tinh tấn, Thiền định. Tuệ là độ thứ sáu, tức Bát nhã, cho thấy sự và lý đều đầy đủ. Trong đoạn sau đây, bát nhã chính là Tánh Nghe:

“Nầy Vô Tận Ý! Quán Thế Âm Bồ Tát
Dùng vô tác diệu lực tam muội Kim Cang
Mở Bi tâm với tất cả chúng sinh
Phát thệ nguyện làm mất lòng kinh sợ
Mười bốn pháp ban bố tâm vô úy
Quán tâm người năng quán được âm thinh
Xoay thấy nghe về tự tánh bổn sinh
Vào nước lửa Pháp Thân nào tổn hoại
Vọng tưởng diệt chân tâm là thường trụ
Ví như người đi giữa lũ yêu ma
Có bao giờ quỷ mị ngự tâm ta
Lực vô ngại vào ra muôn ức cõi.
Luôn huân tập Cái Nghe về bản tánh
Đem sáu căn về lại một Tánh Nghe
Khiến chúng sinh đương lúc bị lâm nguy
Đao gãy đoạn như chạm vào sắt thép
Nước tĩnh lặng chỉ hoài công kiếm bén
Tánh nguyên lai chẳng lay động bao giờ
Một Tánh Nghe rỗng suốt cõi thiên thu
Xóa bóng tối u đồ bừng tuệ nhật
Nghe như không nghe, tiếng như không tiếng
Âm thinh trần nguyên hiện tánh âm thinh
Những gông cùm xiềng xích chốn ngục hình
Chẳng giam nổi thánh tâm người đạt Đạo.
Tiếng theo tiếng trả về cho tĩnh lặng
Thuần Tánh Nghe viên mãn chẳng đến đi
Đại lực Từ viên mật suốt trong ngoài
Cảnh đối cảnh, người đối người an lạc

Vững vàng như núi ai người nhổ được
Lìa sắc thanh, vọng dục vướng chi chân
Căn cảnh viên dung không sở, không năng
Ai người nói ai người nghe đối đãi
Lìa sân hận không ta, người, khôn, dại
Biết cảnh trần hư dối tướng đến, đi
Pháp giới, thân tâm như minh nguyệt lưu ly
Tâm mông muội san bằng như thạch bích.”

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

4/. Chân Ứng:

Nếu trí tuệ nhận ra thực tướng vạn pháp tức tánh tướng không hai, nhân quả đồng thời, một bàn tay khi úp khi mở, trăng khi tròn khi khuyết… thì đà phù hợp với pháp tánh, pháp tánh tức là tên gọi thật tướng, là pháp thân. Pháp thân đã hiển bày thì có khả năng thuận theo Chân tức Bản hoặc Thực, mà khởi ứng thân tức Tích hoặc Quyền.

“Bửu giác viên dung Kiến, Văn, Giác, Tri
Thân ứng hóa trên đường mây, bóng lá
Hiện tám muôn bốn nghìn hình tướng lạ
Khi từ bi, khi định, tuệ, oai nghi
Nói vô biên thần bí tạng chân ngôn
Vào biển khổ hải triều âm bất tuyệt
Cảnh hóa trần ví mây che mặt nguyệt
Do Văn, Tư đã đối cảnh vô tâm
Như âm thinh vượt tường vách che ngăn
Hiện thần dụng lướt trên ngàn mẫu tự
Tín tâm minh vượt vạn trùng sóng dữ
Lòng kinh nghi khiếp hãi được bình an
Chút thịt xương kết hợp gọi là thân
Người tịnh hạnh đã từng phen buông xã
Như trí Phật trang nghiêm nghìn cõi nước
Như tâm Từ hiện Như Ý bảo châu
Cảnh trời, người ba cõi nhiếp tâm tu
Thấy Phật lực như sở cầu ứng hiện.
Bậc Tịnh Thánh chúng sinh thường tâm niệm.”

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

5/. Dược Châu:

Hai thân Dược Thụ Vương và Như Ý Châu Vương do Phật hóa hiện. Dược là cây thuốc chúa có thể trị lành tất cả tật bệnh của chúng sinh. Châu là hạt ngọc Như Ý có thể sinh ra các vật quý báu. Sự hóa hiện của chư Bồ tát và Chư Phật từ chân thân đều ví như ngọc châu làm ích lợi cho người khác. Chân thân hiện muôn vàn thân tướng dụ như cây thuốc quý trị lành muôn vàn thân bệnh và tâm bệnh. Các ứng thân này tùy muôn cơ duyên ứng dụng tương tự như hạt châu chiếu sáng. Thí dụ này cũng có thể giải thích theo câu chuyện một người đi vào rừng tìm được một cây thuốc quý tỏa hào quang. Người ấy mang cây thuốc về, trị lành tất cả bệnh cho những người xa gần. Cây thuốc được gọi là dược châu.

Kinh Pháp Hoa, phẩm thứ 24, hai chữ “vãng lai” trong phẩm Bồ Tát Diệu Âm Vãng Lai bao hàm ý nghĩa tinh vi về quyền thực, bản tích, chân ứng, tánh tướng nhất như.

“Trên tòa vì người hằng chuyển pháp luân
Chư Bồ Tát quỳ dưới chân phụng thỉnh
Như nhật nguyệt trải dài miền đất tịnh
Tỏa ngời thân vị Bồ Tát Diệu Âm
Dùng vô biên đại tam muội nghiêm thân
Hạnh Bồ Tát dúm bụi hồng phù thế
Bay trong cõi kinh vàng ru sóng bể
Một lần qua rồi lại những lần qua
Vô lượng thân rụng xuống nụ tàn hoa
Mầm nhánh mới bật chồi rung chuyển đất”.

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

6/. Hiển Ẩn:

Hiển là phơi bày thân ứng hóa. Ẩn là ẩn kín thân chân thực. Hiển là hiển Tích. Ẩn là ẩn Bản. Hiển là hiển Quyền. Ẩn là ẩn Thực. Đây chỉ là một giai đoạn tùy cơ giáo đạo của chư Phật và chư Bồ tát. Đến lúc cần thì lại “khai Tích hiển Bản” như trong phẩm “Như Lai Thọ Lượng” trong kinh Pháp Hoa. Đối với Bồ tát Quán Thế Âm thì danh xưng này cũng như 32 giả danh và giả tướng lúc hiện thân Trời, thân Trưởng giả, thân Dạ Xoa v.v… chỉ là Tích mà thôi. Bồ tát đã thành Phật tự lâu xưa với Phật hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai, nay hóa hiện thân Bồ tát chính là “hồi đại hướng tiểu”.

“Phật dạy rằng: Cũng nên chớ sinh lòng
Khởi ý tưởng cõi Diêm Phù hạ liệt
Vô lượng chúng sinh, chẳng hư, chẳng thiệt
Phật Thích Ca thương xót ứng hiện thân
Giáo pháp cho người, điều phục khó khăn
Chư Bồ Tát mang thân hình đen đúa
Chẳng như ông – từ nhân lành kết quả
Được sắc thân sáng rực, trí quang minh
Như thân ta trùm khắp đại tam thiên
Sắc thân Phật cõi Diêm Phù chẳng vậy.
Ngài Diệu Âm bạch rằng: Như uyên hải
Con nay qua đến cõi nước Diêm Phù
Nương oai thần, Phật lực khối tâm hư
Nhập tam muội dụng thần thông như ý”.

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

7/. Quyền Thật

Phần này đã nói các trang trên, ở đây không cần thiết phải nhắc lại. Nếu đứng trên phạm vi giáo đạo mà luận thì Tứ trí hợp với Tứ giáo như đã nói trên, nhưng tóm lược mà nói không ra ngoài hai trí là Quyền và Thật.

“Phật lại dạy rằng: Hỡi nầy Hoa Đức!
Bồ Tát Diệu Âm biến hóa muôn thân
Dùng âm thanh mà hoán chuyển tam luân
Dâng kỹ nhạc khiến chúng sinh nhiếp ý
Cảm hóa tâm người đưa về nhất thể
Độ tam đồ cũng vẫn nói kinh nầy
Hoặc hậu cung ứng hiện bậc vương phi
Đại thần lực đến đi không tổn giảm.
Nếu tương ưng pháp Thanh Văn độ thoát
Liền ứng thân người tu hạnh nhị thừa
Nếu độ người mến thích cảnh thanh u
Rừng suối vắng liền hiện thân Duyên Giác
Người phát đại tâm năng cầu đại pháp
Liền hiện thân Bồ Tát nói lục hành
Nếu người cầu thấy Phật chuyển mê tình
Trên đài báu hiện ngồi tòa chư Phật.
Chỗ chúng sinh biếng lười tâm thối thất
Liền vì người thị hiện nhập Niết Bàn
Đại thần thông trí tuệ khó so lường
Như đại hải, biển âm thinh vô ngại”.

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

8/. Bổn Tích

Quyền Thực là luận về chiều rộng, Bổn Tích là luận về chiều cao. Thực ra chư Phật vì căn tánh chúng sinh cao thấp mà thuyết ra giáo pháp cao thấp, tùy căn cơ chúng sinh hạn hẹp mà thuyết ra giáo pháp rộng sâu. Tự tánh Pháp không cao không thấp không rộng không hẹp.

“Lại thưa rằng: Vị Diệu Âm Bồ Tát
Trồng cội căn lành độ thoát thế gian
Bạch Thế Tôn! Chánh định khó nghĩ bàn
Xin được dạy những gì là tam muội?
Phật lại dạy rằng: Hỡi nầy Hoa Đức!
Chánh định là Hiện Nhất Thiết Sắc Thân
Danh vô danh, tướng vô tướng chuyển luân
Luôn khai triển vô lậu tâm hằng hữu”.

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

9/. Duyên Liễu

Trong Quán Âm Huyền Nghĩa Ký, sư Tri Lễ nói: “Liễu là biểu hiện phát ra, duyên là cung cấp giúp đỡ. Cung cấp giúp đỡ cho Pháp thân phát ra biểu hiện rõ ràng. Liễu là trí quán Bát-nhã, cũng gọi là tuệ hành chánh đạo trí tuệ trang nghiêm. Duyên là giải thoát, hành hạnh trị đạo phước đức trang nghiêm. Đại Luận chép: “Một người có thể làm cỏ – một người có thể gieo trồng. Gieo trồng dụ cho duyên, làm cỏ dụ cho liễu. Nói chung về giáo thì các giáo đều đầy đủ nghĩa duyên liễu”.

Ngoài nghĩa trên, Từ Hoa tôi xin được phép giải thích với một nghĩa khác là “sinh nhân” và “liễu nhân” không phải là hai.

“Này Hoa Đức! Xưa Diệu Âm Bồ Tát
Hiện thân này cũng pháp hiệu Diệu Âm
Sắc và thanh đâu ngoài một nguồn tâm
Tâm tinh vẹn ví gặp hằng sa Phật.
Thanh vô thanh – không người và không vật
Nên vào ra vô ngại ứng muôn thân
Tùy hạnh duyên qua lại bể trầm luân
Như tiếng sóng vỗ đôi bờ sinh tử.”

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).

10/. Trí Đoạn:

Trí tức Trí Đức, là trí chiếu soi chân lý, chỉ cho Bồ Đề. Đoạn tức Đoạn Đức, là trí diệt vô minh, chỉ cho Niết Bàn. Cũng có nghĩa là dùng trí tuệ bát nhã chuyển hóa vô minh.

“Muôn cõi tịnh đạo tràng là thế giới
Vào thế gian chẳng hoại pháp thế gian
Pháp tử mười phương đảnh lễ cúng dàng
Là trí tuệ đồng hằng sa chư Phật
Lục căn viên thông, cảnh tâm bất nhị
Như mặt gương hiện rõ nghiệp chúng sinh
Vô lậu căn thân, kính trí Đại Viên
Thể tròn sáng tánh Không Như Lai Tạng
Tri kiến đồng Phật hiện thân đồng Phật
Vào tận mật ngôn, mật ngữ Như Lai
Sinh ra Văn-Thù nhiều đến sáu mươi hai
Số hạt cát sông Hằng nghìn thế giới
Trăm ức mặt trời hiện trăm ức cõi
Vòng trăng xanh nguyệt chiếu mỗi song mây
Pháp Như Lai tùy phương tiện mãn khai
Tùy căn tánh chúng sinh mà thuyết giáo.
Đắc nhĩ căn viên thông vô thượng đạo
Vô tác thần thông diệu đức bất tư nghì.”

(Trích Muôn Pháp Hội Trổ Một Hoa Vô tướng, Từ Hoa Nhất Tuệ Tâm, 2009).


Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
06/09/2010(Xem: 6086)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 4710)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3564)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 5799)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 6919)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5236)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 52303)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6651)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 51668)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
08/08/2010(Xem: 3389)
Làm sao để mọi người đều có thể áp dụng lối sống lành mạnh? Làm sao để xã hội phát triển bền vững, hài hòa? Làm sao để mỗi người được sống hạnh phúc? Tại sao nhiều người đã biết rằng hút thuốc, uống rượu và sử dụng các chất gây nghiện là có hại cho sức khỏe mà họ vẫn không từ bỏ nó? Tại sao nhiều người biết rằng khí hậu toàn cầu đang biến đổi theo chiều hướng bất lợi đối với trái đất nhưng hàng ngày vẫn có những hành động trực tiếp, gián tiếp làm tổn hại đến môi trường sống?...
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567