Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

24. Truyền Thống, Phong Tục Và Lễ Hội

01/01/201109:08(Xem: 7713)
24. Truyền Thống, Phong Tục Và Lễ Hội

TRUYỀN THỐNG, 

PHONG TỤC VÀ LỄ HỘI

Phật giáo rất cở mở đối với tất cả những truyền thống và phong tục miễn là chúng không có tác động tai hại đến lợi lạc của tha nhân.

Ðức Phật khuyên chúng ta không nên tin vào những gì chỉ đơn giản bởi vì đó là những phong tục, truyền thống. Tuy nhiên, chúng ta được khuyên không nên đột nhiên gạt bỏ hết tât cả những truyền thống. ‘Các vị nên cố gắng kiểm nghiệm chúng và kiểm tra xem xét kỹ lưỡng chúng. Nếu chúng thích hợp và đưa đến hạnh phúc cho chính bản thân và lợi lạc cho những người khác thì chỉ khi đó các vị nên chấp nhận và thực hành những truyền thống và phong tục này’. (Kinh Kalama)

Chắc chắn đây là một trong những lời tuyên bố khai phóng nhất đã từng được một vị đạo sư tuyên bố. Thái độ khoan dung, cởi mở này đối với những truyền thống và phong tục của những người khác không có trong một số nhà lãnh đạo tôn giáo. Những nhà lãnh đạo tôn giáo này luôn luôn khuyên nhủ những tín đồ mới được giáo hoá của họ từ bỏ tất cả những phong tục, truyền thống và nền văn hoá của riêng họ mà không xem xét liệu chúng là tốt hay xấu. Trong lúc truyền bá chánh pháp, những nhà truyền giáo Phật giáo không bao giờ khuyên nhủ người ta phải từ bỏ những phong tục và truyền thống của họ miễn là chúng thích hợp là được. Nhưng truyền thống và phong tục phải nằm trong khuôn khổ của những nguyên tắc đạo lý. Hay nói cách khác, người ta không nên vi phạm giới luật tôn giáo để mà tôn thờ những truyền thống của mình. Nếu con người rất thiết tha đối với những truyền thống của riêng mình mà những truyền thống đó, ngược lại không mang một giá trị đạo lý nào cả, thì họ cũng có thể làm như thế miễn là họ không thực hành những truyền thống và phong tục này trên danh nghĩa của tôn giáo. Mặc dù vậy, những sự thực hành như thế không nên gây tổn hại đến bản thân và tất cả những loài sinh vật khác.

Lễ nghi và hình thức

Lễ nghi và hình thức được bao hàm trong truyền thống và phong tục. Lễ nghi và hình thức là một sự trang điểm hay trang hoàng để làm tô thêm vẻ đẹp của một tôn giáo nhằm mục đích thu hút sự chú ý của công chúng. Chúng mang lại một sự trợ giúp về mặt tâm lý đối với một số người. Song con người ta có thể hành trì một tôn giáo mà không cần đến bất cứ một hình thức lễ nghi nào. Có một số lễ nghi và hình thức mà người ta xem như phương diện quan trọng nhất của tôn giáo họ để đạt được sự cứu rỗi thì lại không được xem là quan trọng như thế đối với Phật giáo. Theo Ðức Phật, người ta không nên chấp vào những hình thức lễ nghi như thế để đạt được sự phát triển tâm linh hoặc là sự thanh tịnh tâm ý của chính mình.

LỄ HỘI
Người Phật tử chân thành và đúng đắn không tổ chức những lễ hội Phật giáo bằng cách chính bản thân mình hưởng thụ dưới sự tác động của những chất kích thích như rượu và làm lễ bằng hình thức ca hát nhảy múa hoặc là chiêu đãi lễ hội bằng thịt của các loài súc vật. Người Phật tử chân chánh tổ chức lễ hội bằng một hình thức hoàn toàn khác hẳn. Vào những ngày lễ đặc biệt, họ sẽ dành hết thời gian tổ chức lễ hội theo cách không làm hại đến người khác, tránh làm các điều ác. Họ làm thiện, giúp đỡ những người khác xoa dịu nỗi khổ đau trong cuộc sống của họ. Người Phật tử có thể chiêu đãi bạn bè hay họ hàng theo một cách đáng trân trọng.

Những lễ hội thường được kết hợp với tôn giáo đôi khi có thể làm cho nhiễm ô sự thanh tịnh của một tôn giáo. Mặt khác, một tôn giáo không có những hình thức lễ hội có thể trở nên buồn tẻ và không có sức sống đối với nhiều người. Thường thì trẻ con và thanh thiếu niên đến với tôn giáo thông qua những lễ hội tôn giáo. Ðối với họ, sự hấp dẫn của một tôn giáo được căn cứ trên cơ sở những hình thức lễ hội của tôn giáo đó. Tuy nhiên, đối với một hành giả hành thiền định thì những lễ hội có thể trở thành một sự phiền toái.

Tất nhiên, có một số người sẽ không hài lòng với những sự tổ chức lễ hội mang tính tôn giáo thuần tuý trong suốt cuộc lễ. Tất nhiên, họ thích có một loại hình thức ca múa, nhảy hát để làm lễ và những buổi trình diễn bên ngoài. Hình thức bên ngoài, lễ nghi, đám xá, đám rước, diễu hành và hội được tổ chức nhằm đáp ứng sự khát khao để thoả mãn nhu cầu tình cảm thông qua tôn giáo. Không một ai có thể nói rằng những việc làm như thế là sai trái, nhưng những tín đồ thuần thành nên tổ chức những buổi lễ này theo một cách có văn hoá mà không gây phiền hà cho những người khác.

MÊ TÍN DỊ ÐOAN VÀ GIÁO ÐIỀU

Người ta chế giễu sự mê tín dị đoan của những người khác, trong khi đó lại nuôi dưỡng cái của chính mình.

Tất cả các căn bệnh đều có cách chữa trị ngoại trừ căn bệnh mê tín dị đoan. Và nếu vì lý do này hay lý do khác, bất cứ hình thức mê tín dị đoan nào kết tinh thành một tôn giáo thì nó dễ dàng trở thành một căn bệnh hầu như không thể chữa trị được. Trong quá trình thực thi một số chức năng của tôn giáo, thậm chí những người có học thức hiện nay lại quên đi chân giá trị con người của họ để chấp nhận những tín ngưỡng lố bịch và mê tín dị đoan.

Niềm tin vào những điều mang tính mê tín dị đoan và những lễ nghi được chấp nhận nhằm trang hoàng bề ngoài của một tôn giáo để mà có thể thu hút được đám đông. Nhưng sau một thời gian, cây leo được trồng để trang hoàng án thờ, vì phát triển theo đúng quy luật của nó, phát triển và sáng chói hơn án thờ, với kết quả là nguyên lý cơ bản của đức tin tôn giáo đó bị loại bỏ đi điều cơ bản và niềm tin mê tín dị đoan và hình thức lễ nghi trở nên ngự trị. Dây leo làm lu mờ đi án thờ.

Cũng giống như mê tín dị đoan, niềm tin giáo điều cũng kìm hãm sự phát triển khoẻ mạnh của tôn giáo. Niềm tin giáo điều và thái độ không khoan dung đi cùng với nhau. Người ta được nhắc lại thời kỳ Trung cổ với những hình thức hành quyết đáng thương, tệ cướp tàn nhẫn, bạo lực, hành vi xấu xa, sự tra trấn dã man và thiêu đốt nhiều người dân vô tội. Người ta cũng được nhắc đến những cuộc thập tự chinh man rợ và tàn bạo. Tất cả những sự kiện này được kích thích bởi những niềm tin giáo điều dựa trên thẩm quyền tôn giáo và thái độ không khoan dung xuất phát từ đó.

Trước khi tri thức khoa học phát triển, những con người vô minh mang trong mình nhiều niềm tin mê tín dị đoan. Chẳng hạn, có rất nhiều người tin rằng sự nhật thực, nguyệt thực đã mang lại những điều không may và căn bệnh dịch hạch. Ngày nay chúng ta biết rằng những sự tin tưởng như thế thì không đúng. Vả lại, có một số nhà lãnh đạo tôn giáo vô đạo đức khích lệ người ta tin vào những điều mê tín dị đoan để mà họ có thể lợi dụng những tín đồ của họ để làm tư lợi. Khi mà con người thực sự tẩy sạch những vô minh trong tâm mình họ sẽ thấy được chân bản chất của vũ trụ và không còn lệ thuộc vào niềm tin mê tín dị đoan và giáo điều. Ðây là sự cứu cánh mà người Phật tử khao khát có được.

Thật vô cùng khó khăn cho chúng ta chấm dứt cái cảm xúc tình cảm gắn liền với niềm tin mê tín dị đoan và giáo điều. Ngay cả ánh sáng của tri thức khoa học cũng không đủ mạnh để khiến chúng ta từ bỏ những quan niệm sai lầm. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng trong nhiều thế hệ, con người cho rằng trái đất quay xung quanh mặt trời; nhưng bằng thực nghiệm chúng ta vẫn cho rằng mặt trời mọc lên, chuyển động xung quanh bầu trời và lặn vào ban đêm. Chúng ta vẫn phải làm một cú vượt nhanh trong lĩnh vực tri thức để tưởng tượng rằng chúng ta, trên thực tế, đang chuyển động ở một tốc độ lớn xung quanh mặt trời.

Chúng ta nên hiểu rằng những hiểm nguy của giáo điều và mê tín dị đoan đi cùng với tôn giáo. Ðã đến lúc cho những con người có trí tách tôn giáo ra khỏi giáo điều và mê tín dị đoan. Kẻo không, danh thơm của tôn giáo sẽ bị làm ô uế và số người không còn tin tưởng vào tôn giáo sẽ tăng nhanh.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
11/10/2010(Xem: 5312)
Chúng ta đã biết đến B. Russell như một trong những nhà sáng lập triết học phân tích. Tuy nhiên, ông không chỉ là một nhà triết học có nhiều tác phẩm, mà còn là người mang triết học đến với đại chúng và gặt hái thành công ở nhiều lĩnh vực khác, như lôgíc học, tôn giáo và thần học, tâm lý học, ngôn ngữ học,… Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến quan điểm của ông về tôn giáo
22/09/2010(Xem: 6969)
Giáo Pháp Tứ Y trong đạo Phật là giáo lý nói về 4 phương phápthực tập sự nương tựa (y cứ) dẫn đến giác ngộ, giải thoát. Bốn phươngpháp thực tập sự nương tựa này không phải là một hành vi gì cao siêu,hoặc phải “tu luyện” lâu xa, mà chỉ là những hành vi rất thường nhật như đói ăn, khát uống… nhưng nó cũng là một trong những thiện pháp nuôi lớn phúc đức và trí tuệ cho mỗi con người, đem đến sự an lạc thântâm, cũng từ đó cảm hoá được quần chúng ở mọi lúc, mọi nơi... Phải biết gạn đục, khơi trong. Đừng lẫn lộn giữa Pháp và người giảng Pháp, bởi “Pháp” chính là Đạo: giảng Pháp là giảng Đạo. Ta nghe Pháp để “thấy” đạo...
22/09/2010(Xem: 6241)
Nếu chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của sự sống nhất thể, chúng ta có thể chia sẻ nguồn vui với mọi kẻ khác cũng như hành động vì hạnh phúc của họ...
10/09/2010(Xem: 58459)
Một cuộc đời một vầng nhật nguyệt (quyển 3) Vào thời không có đức Phật Chánh Đẳng Giác ra đời, tại vùng Allakappa bị dịch bệnh hoành hành, lây lan từ người này sang người khác, nhà này sang nhà khác làm cho rất nhiều người chết, đói kém xảy ra khắp nơi. Những người còn mạnh khỏe, chưa bị lây nhiễm
06/09/2010(Xem: 6833)
“Trước sự Nô Lệ của Con Người” là nhan đề chúng tôi dùng để gọi tập sách này, gồm những bài viết và những bài thảo luận quan trọng mà chúng tôi đã trình bày trong những hội nghị quốc tế và quốc nội. Những vấn đề đặt ra trong tập sách đều nhắm vào một trọng tâm độc nhất: tìm lại con đường của văn hoá Việt Nam trước sự nô lệ của con người để khai quan một chân trời cho ý thức tự do của nhân tính
03/09/2010(Xem: 5197)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3862)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 6433)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 8160)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5823)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]