Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật Giáo Và Tự Do Tư Tưởng

01/01/201108:31(Xem: 9340)
Phật Giáo Và Tự Do Tư Tưởng

PHẬT GIÁO và TỰ DO TƯ TƯỞNG


1. ÐỨC PHẬT

Ðức Phật là một chúng sanh duy nhất, đặc biệt Ngài là nhà tư tưởng uyên thâm nhất trong các tư tưởng gia, là người phát ngôn thuyết phục nhất trong các phát ngôn viên, nhà cải cách thành công nhất, vị đạo sư từ bi nhất và độ lượng nhất và là một nhà quản trị hữu hiệu nhất. Ðặc trưng đáng chú ý nhất của Ðức Phật là sự thanh tịnh và thánh thiện hoàn toàn của Ngài. Ngài quá thanh tịnh và quá thánh thiện đến mức độ mà Ngài phải được gọi là bậc thánh thiện nhất trong các bậc Thánh. Ngài là mẫu người hoàn hảo nhất, lý tưởng nhất về nhiều mặt, bất cứ ai tiếp xúc với ngài cũng đều công nhận sự vĩ đại không thể phủ nhận được và được ảnh hưởng sâu sắc bởi cá tính có sức hấp dẫn của Ngài.

Ý chí, trí tuệ, lòng từ bi, sự phục vụ, sự xuất thế, cuộc sống mẫu mực của Ngài, và sự thành công của Ngài - tất cả những yếu tố này góp phần hoan nghênh Ðức Phật như một bậc đạo sư vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Ðức Phật là người đầu tiên trên thế gian này lãnh một sứ mạng tích cực trong việc hoằng hóa độ sanh. Ngài du hành từ nơi này đến nơi khác trong 45 năm, truyền thuyết pháp cho cả dân chúng lẫn tầng lớp trí thức, vua chúa, quí tộc v.v... Mãi cho đến lúc sắp nhập Niết-bàn, Ngài đã phục vụ cho quần sanh bằng những tấm gương lẫn giới hạnh của Ngài. Những vị đệ tử xuất sắc của Ngài cũng hành động giống như những gì bậc đạo sư của họ đã làm. Thậm chí không một đồng xu dính túi - họ đã du hành khắp đó đây nhằm truyền bá giáo pháp của bậc đạo sư cho quần sanh mà không cầu mong được đền đáp lại bất kỳ điều gì.

“Hãy nỗ lực tinh tấn trên con đường hành đạo” là những lời di huấn cuối cùng của Ðức Thích Tôn không có một sự giải thoát hay thanh tịnh hóa nào có thể đạt được mà không có một sự nỗ lực của từng cá nhân.

Những lời cầu nguyện và van xin để được ban phước không được chấp nhận trong đạo Phật và thay vào đó là hãy nỗ lực tu tập thiền định, đưa đền sự tự kiểm soát thân tâm, sự thanh tịnh và chứng đắc giác ngộ. Mục đích của sứ mệnh của Ðức Phật là nhằm giải thoát chúng sanh khỏi khổ đau bằng cách đoạn tận nguyên nhân của khổ và thuyết giảng chánh đạo đưa đến sự chấm dứt sanh tử nếu như những ai nỗ lực tu tập. Tuy nhiên nhân đây, Ðức Phật cũng thuyết những bài pháp liên quan đến sự tiến bộ về đời sống vật chất. Sự tiến bộ cả về vật chất lẫn tinh thần thì rất cần thiết cho sự phát triển, thịnh vượng của một quốc gia. Vật chất không nên tách khỏi tinh thần, hoặc là sự tiến bộ về mặt vật chất cũng không nên đạt được bằng cách hy sinh sự tiến bộ về mặt tâm linh như đã được chứng kiến tại một số quốc gia đang trên đà phát triển cao về mặt vật chất trên thế giới hiện nay.
Pandit Nehru, cựu thủ tướng Ấn Ðộ, thường liên hệ Ðức Phật như là một người “con” vĩ đại nhất của đất nước Ấn Ðộ. Tiến sĩ S.Radhakrishnan một nhà lãnh đạo của Ấn Ðộ và cũng là một triết gia, khi "dâng hiến" những lời ca ngợi tán dương Ðức Phật, đã phát biểu như sau:

“Trong Ðức Phật Cồ Ðàm, chúng ta có một người thông minh khác thường từ phương Ðông độc nhất vô nhị, đối với sự ảnh hưởng trong tư tưởng và đời sống của nhân loại, và rất hiếm khi nhìn thấy những vị sáng lập các tôn giáo truyền thống có một sự thông thái và sâu sắc như Ngài. Ngài thuộc về vĩ nhân trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Ngài là người thừa hưởng chúng của tất cả những con người học thức. Rõ ràng Ðức Phật là một trong những nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại”.

Trong tác phẩm “Ba nhân vật vĩ đại nhất trong lịch sử”, sử gia H.G.Wells viết như sau: “Trong Ðức Phật chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng một con người rất giản dị, tận tâm, đơn độc tranh đấu cho sự giác ngộ chân lý - một tính cách, con người rất sinh động, chứ không phải là một huyền bí. Ngài giảng dạy những chân lý rất thiết thực trong cuộc sống. Nhiều ý tưởng hay nhất trong xã hội của chúng ta hiện nay cũng rất tương hợp, gần gũi với lời dạy của ngài. Ngài dạy, tất cả khổ đau và những sự bất mãn là do tính ích kỷ sinh ra. Trước khi một con người có thể trở thành thanh tịnh vắng lặng, anh ta không thể sống vì nhu cầu của chính bản thân. Thì sau đó, anh ta mới có thể trở thành một bậc vĩ nhân. Ðức Phật cũng vậy, Ngài đã từ bỏ tất cả để sống một cuộc đời giản dị. Vì thế, xét về nhiều phương diện, Ðức Phật rất là gần gũi với chúng ta và những nhu cầu của chúng ta.”

“Ðức Phật thực sự là một con người nhưng con người này là thánh nhân. Là một vị Phật, ngài không phải tái sinh nhưng bằng hình thức thị hiện nơi cõi ta bà này để dẫn dắt chúng sanh tu hành giải thoát khỏi biển mê. Ngài thấy có những khả năng tiềm ẩn bên trong và năng lực sáng tạo của mỗi chúng sanh mà không cần đòi hỏi chính anh ta phải có một năng lực siêu nhiên nào đó. Ngài cũng khuyên chư đệ tử Ngài hãy thi đua với Ngài để chứng đạt Phật quả, bởi vì hạt giống Phật có sẵn trong mọi người (nhất thiết chúng sanh giai hữu Phật tánh).”

Ðức Phật được chư đệ tử Ngài tôn kính, đảnh lễ như là một bậc thầy mô phạm tối thượng, nhưng Ngài không bao giờ được tôn sùng như là một vị Thượng đế, thần thánh để cầu mong được những ân huệ (sự ban ân) về mặt vật chất cũng như tinh thần Ðức Phật để lại bất cứ gia sản nào cho những đệ tử của Ngài sau này thừa hưởng. Tuy nhiên, người ta nhận xét rằng không có một bậc thầy mô phạm nào mà quá vô thần giống như Ðức Phật nhưng rất giống một bậc cứu thế.

Chính Bertrand Russell gọi Ðức Phật là “một người vô thần vĩ đại nhất trong tất cả các thời đại”.

Nhưng chủ nghĩa vô thần ở đây không nên hiểu sai, hay đồng nghĩa với tinh thần phi tôn giáo. Ðể hình thành sự an lạc, hạnh phúc chân thật cho nhân loại, một bậc đạo sư thanh tịnh, giác ngộ thì tuyệt đối cần thiết trên thế giới suy đồi về mặt đạo đức này. Ðiều quan trọng không có niềm tin tín điều mù quáng hay lễ nghi tôn giáo có thể mang lại lợi lạc cho đại đa số, nhưng điều cần thiết là một cuộc sống thanh tịnh và hữu ích đầy tình thương, lý trí và sự công bằng dựa vào những nguyên tắc cao thượng của những bậc đạo sư khả kính.

Theo giáo sư Foad “vào thế kỷ thứ 6 trước Tây lịch tại Ấn Ðộ và Trung Hoa đã xuất hiện 3 vị Ðạo sư vĩ đại. Các Ngài cố gắng giúp cho nhân loại hiểu được những gì quan trọng cần phải làm những gì chân chánh nhằm mang lại lợi ích cho tự thân và tha nhân. Ðức Cồ Ðàm là một trong những bậc Ðạo sư quan trọng nhất trong số các ngài”.

Ðức Phật nhấn mạnh tầm quan trọng của giới luật như là phương tiện để đạt cứu cánh, giải thoát. Ngài khuyên bảo rằng chúng ta phải suy nghĩ chân chánh dựa trên tinh thần vị tha, lòng từ, vô hại; chánh ngữ mới có thể khiến cho chúng ta kiểm soát được những lời nói ác ý của chúng ta; chánh nghiệp bằng cách tránh sát nhân hoặc các loại động vật, không trộm cắp bằng cách trực tiếp hay gián tiếp, không tà hạnh, và chánh mạng phải thoát khỏi sự bóc lột, biển thư hay những phủ cách phi pháp khác nhằm làm giàu cho bản thân. Tất cả, những nguyên tắc trên hình thành nên cơ sở nền tảng luân lý, đạo đức.

Ðức Phật gởi những bức thông điệp cao quý của Ngài về sự phục vụ vị tha, về nguyên tắc đạo đức, và lòng từ vô biên không chỉ riêng cho hàng quốc vương hoàng tử, quý tộc, trưởng giả giàu sang mà còn cho tầng lớp nghèo, người hạ tiện thấp hèn cùng đinh. Ngài đã tạo ra những cơ hội bình đẳng cho tất cả chúng sanh, và đề cao địa vị của con người. Ngài tuyên bố rằng con đường đưa đến sự tụ tập phát triển tâm linh được mở rộng ra cho tất cả trong bất cứ điều kiện nào của cuộc sống cao thượng hay thấp hèn, thánh hay phàm, trong sạch hay tội lỗi, cho bất kỳ ai muốn hồi đầu, quy về với chánh pháp và tìm cầu sự hoàn hảo trong cuộc sống.
Mỗi ngày Ðức Phật thuyết pháp cho cả hai giới xuất gia lẫn tại gia. Tuy nhiên, những gì Ngài dạy là một phần rất nhỏ so với những gì Ngài biết. Vào một dịp nọ, Ngài cầm một nắm lá trên tay và nói rằng những gì Ngài nói được so sánh với nắm lá trên tay của Ngài, và những gì Ngài không nói được so sánh như toàn bộ lượng lá trong một ngôi rừng. Ngài chỉ nói những gì được xem là cần thiết cho sự giải thoát của chúng ta.

Trong cuộc hành trình hằng ngày của Ngài, Ngài tiếp xúc với những cá nhân cần sự giúp đỡ của Ngài; Ngài hướng dẫn và khuyên bảo hàng đệ tử xuất gia của Ngài và Ngài thậm chí còn thuyết pháp cho hàng chư thiên (devas). Ngài nói pháp cho dân chúng và các giai tầng khác nhau trong xã hội, bao gồm vua chúa, quí tộc, trí thức v.v... Lời dạy của Ngài thực sự chứa đựng “bầu sữa tươi mát” cho “những em bé” và “miếng thịt” ngon cho người lớn. Trước khi Ngài thuyết pháp, Ðức Phật đảm bảo chắc chắn rằng sự đói khát cần được cung cấp nguồn sống, như thức ăn cho cơ thể cũng rất cần thiết cho nguồn thức ăn tinh thần. Ngài chăm sóc chu đáo người bệnh bằng đôi bàn tay của chính mình và Ngài tuyên bố rằng: “Những ai chăm sóc chu đáo bệnh nhân cũng là chăm sóc chu đáo chính Ngài”.

Ðức Phật xóa bỏ các giai tầng trong xã hội bằng cách mở ra cánh cửa Tăng đoàn cho tất cả các cá nhân khác nhau, không phân biệt tầng lớp giai cấp. Sự phân biệt duy nhất là việc phân chia cấp bậc trong việc lãnh thọ giới pháp như sadi (Samanera - 10 giới) Tỳ-kheo (250 giới) và sự chứng đắc dần dần của 4 quả vị thánh. Thậm chí sự thành lập Giáo hội Tăng đoàn cũng mang tính cách rất là dân chủ bình đẳng. Liên hệ đến vấn đề này, Lord Zetland phát biểu: “Và có thể xảy ra một điều rất ngạc nhiên đối với mọi người khi biết rằng trong sự hình thành giáo hội Tăng đoàn của Ðức Phật tại Ấn Ðộ cách đây hơn 2500 năm được tìm thấy những nguyên lý cơ bản của việc thực thi hệ thống quốc hội của xã hội chúng ta ngày nay”.

Tương tự như vậy, lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại Ðức Thế Tôn đã thành lập địa vị tôn giáo cho nữ giới - sự ra đời giáo hội Tỳ-kheo ni - mở ra một khuynh hướng mới cho tất cả nữ giới bị khinh miệt, đày đọa trong xã hội Ấn Ðộ lúc bấy giờ. Do đó, Ngài cũng tạo ra sự bình đẳng cho địa vị nữ giới đối với sự tu tập đời sống tâm linh của họ. Ðức Phật cũng là người đầu tiên được biết đến trong lịch sử bằng mọi nỗ lực nhằm xóa bỏ giai cấp nô lệ bằng cách đưa ra khái niệm về tình huynh đệ và chân giá trị của con người. Ðức Phật phản bác sự giết chóc các loài động vật không may mắn để cúng tế thần linh, và mang lại tình thương cho chúng. Một Phật tử chân chánh nên thực hành lòng từ hướng đến tất cả chúng sanh, không phân biệt bất cứ chủng loại nào.

Chính lòng từ hình thành nên nền tảng cho tình huynh đệ của những quốc gia hoặc là một tình bạn hữu giữa các tôn giáo nhằm xóa bỏ tất cả các hàng rào ngăn cách chia rẽ giữa quốc gia này với quốc gia khác, giữa tôn giáo này với tôn giáo khác. Nếu những người tôn sùng nhiều niềm tin khác nhau không thể hoặc sẽ không có cùng chung một sân ga như tình huynh đệ, anh chị em v.v... chỉ vì họ thuộc những tôn giáo khác nhau thì chắc chắn rằng những vị đạo sư cao quý sẽ thất bại trong sứ mệnh của các Ngài vì sự nghiệp hoằng hóa độ sanh.

Ðức Phật là một người hoàn toàn khoan dung độ lượng. Sự khoan dung độ lượng là kẻ thù vĩ đại nhất của tôn giáo. Do đó, Ðức Phật khuyên các đệ tử Ngài không nên giận dữ, bất mãn và thậm chí không vui vẻ khi những người khác nói xấu Ngài, chê bai phỉ báng những lời dạy của Ngài và các đệ tử Ngài. Ðức Phật dạy: “Nếu các vị tỏ ra không vui vẻ, hài lòng, thì các vị sẽ không chỉ thiêu đốt tất cả các công đức mình đã tụ tập khi nay, mà các vị còn không thể phán đoán suy xét liệu những điều họ nói là đúng hay sai.” Tiến sĩ S. Radhakrishnan đã phát biểu: “Một chúng sanh đã hoàn toàn giác ngộ, thậm chí sau 2500 năm của sự giác ngộ.”

Ðức Phật không thuyết giáo điều buộc người ta phải tin một cách mù quáng, không có tín ngưỡng hay niềm tin mà buộc người ta phải chấp nhận mà không có lý trí suy xét, không có lễ nghi hình thức, mê tín dị đoan được quan sát để chính thức gia nhập đạo, và không có những nghi thức tế lễ thần linh và sự tự hành để chuộc lấy tội lỗi cho sự thanh tịnh hóa thân và tâm. Ðức Phật trình bày những chân lý hết sức đơn giản cho đại đa số và một nền triết lý hết sức thậm thâm vị diệu cho tầng lớp trí thức.

Ngài khuyên những người tìm cầu chân lý không nên chấp nhận bất cứ điều gì vì quyền uy của kẻ khác, nhưng hãy chấp nhận chúng khi đã xem xét kỹ lưỡng, và nên phán xét liệu điều đó đúng hay sai.

Trong suốt cuộc đời thuyết pháp độ sanh của Ngài cách đây hơn 2500 năm, không có một giọt máu nào rơi xuống đất trong sự nghiệp truyền bá chánh pháp, và không có một sự cảm hóa nào được thực thi bằng những biện pháp ép buộc và bạo lực. Nhưng Ðức Phật là người truyền giáo đầu tiên và vĩ đại nhất đã từng hiện hữu trên cõi đời này.

Những lời dạy thậm thâm vi diệu của Ngài đã lan tỏa và đang tiếp tục trên con đường lan tỏa khắp hầu hết các quốc gia trên toàn thế giới bởi vì tính phổ quát, khoan dung độ lượng, dù là thời đại khoa học kỹ thuật cao như hiện nay. Giáo pháp của Ðức Phật đã đóng góp to lớn cho sự phát triển, thăng hóa về mặt văn hóa của nhiều quốc gia Á châu. Trên thực tế đã chứng minh rằng tất cả các quốc gia mà Phật giáo làm quốc giáo đã trưởng thành trong các nôi của Phật giáo.

Nhiều quốc gia đã ra đời và biến đi, nhiều triều đại được hình thành trên cơ sở quyền năng và thế lực đã thịnh và suy, nhưng triều đại Phật pháp do Ðức Phật sáng lập dựa trên tình thương, lòng từ và lý trí vẫn đang thịnh hành và sẽ tiếp tục thịnh hành.


Source: thuvienhoasen

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/09/2010(Xem: 4714)
Khi thế kỷ hai mươi kéo màn kết thúc, chúng ta thấy rằng thế giới trở nên nhỏ hơn và loài người trên thế giới đã trở thành gần như một cộng đồng. Những liên minh quân sự và chính trị đã được tạo thành những nhóm đa quốc gia rộng lớn, công nghiệp kỷ nghệ và mậu dịch quốc tế đã sản xuất một nền kinh tế toàn cầu, và sự đối thoại toàn thế giới đang xóa đi những hàng rào cũ kỷ của khoảng cách, ngôn ngữ, và chủng tộc.
30/08/2010(Xem: 3569)
Theo lịch sử tiến hóa của loài người, từ thời kỳ nguyên thủy, dân số trên trái đất này còn rất ít. Vì thế, sự ưu đãi của thiên nhiên mà con người được thừa hưởng rất lớn. Dĩ nhiên lúc đó, người ta không phải đặt vấn đề về kinh tế, mọi người chỉ sống và hưởng thụ tài sản của thiên nhiên một cách đơn giản. Nhưng đến giai đoạn dân số được phát triển với đời sống con người được tập hợp thành bộ tộc thì vấn đề bắt đầu xảy ra, vì đã xuất hiện sự tranh chấp về những nguồn lợi thiên nhiên.
30/08/2010(Xem: 5803)
Chưa bao giờ con người ngưng tìm kiếm trong thiên nhiên đề mong thâu thập được nhiều thứ hơn nữa nhằm chất đầy cái nhà kho mãi mãi thiếu thốn của mình. Từ thuở chào đời, hình như định mệnh buộc nó phải đối mặt với một thế giới cứ muốn cắt giảm năng lực của mình, khi nó nhận ra hai bàn tay mình thì quá ngắn, hai chân mình lại quá chậm để có thể bắt kịp cái dòng chảy xiết của sinh tồn để hưởng thụ cuộc sống, nó phải nuôi dưỡng cơ thể.
30/08/2010(Xem: 6934)
Không giống những tôn giáo khác và những lý thuyết hiện đại về kinh tế học, đạo Phật cho rằng kinh tế học gắn liền với đạo đức học và lý thuyết về hành vi (kamma). Mặc dù nhiều nhà kinh tế xem kinh tế học là một khoa học “tích cực” của một loại hiện tượng xã hội, nhưng dưới cái nhìn của đạo Phật, kinh tế học có quan hệ đặc biệt với đạo đức học. Lý thuyết kinh tế học của đạo Phật nhấn mạnh quan điểm về sự chủ tâm (cetan(, tác ý) trong việc giải thích tư cách đạo đức con người. Trong bài này, tác giả cố gắng giải thích vài khái niệm quan trọng trong kinh tế học như đã được mô tả trong kinh điển đạo Phật để cho thấy rằng đạo đức học đóng một vai trò quan trọng trong kinh tế học và do đó có một tầm quan trọng lớn đối với kinh tế học và ngược lại.
30/08/2010(Xem: 5246)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 52392)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 6656)
Văn hóa và giáo dục Phật giáo là phương tiện để ươm mầm và nuôi dưỡng hạt giống bồ đề tâm trong từng cá thể xã hội. Khi những hạt mầm lớn lên sẽ là những con người đi vào cuộc đời bằng tâm bồ đề, bằng trí giác ngộ, bằng trái tim từ bi để không những thắp sáng lý tưởng cao cả của Phật Đạo, mà còn là những nhân tố hữu ích để góp phần xây dựng và phát triển xã hội.
28/08/2010(Xem: 51715)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
08/08/2010(Xem: 3389)
Làm sao để mọi người đều có thể áp dụng lối sống lành mạnh? Làm sao để xã hội phát triển bền vững, hài hòa? Làm sao để mỗi người được sống hạnh phúc? Tại sao nhiều người đã biết rằng hút thuốc, uống rượu và sử dụng các chất gây nghiện là có hại cho sức khỏe mà họ vẫn không từ bỏ nó? Tại sao nhiều người biết rằng khí hậu toàn cầu đang biến đổi theo chiều hướng bất lợi đối với trái đất nhưng hàng ngày vẫn có những hành động trực tiếp, gián tiếp làm tổn hại đến môi trường sống?...
03/08/2010(Xem: 12400)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567