Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Những Viên Ngọc Quý (sách pdf của HT Thích Thái Hòa)

02/11/202208:33(Xem: 17763)
Những Viên Ngọc Quý (sách pdf của HT Thích Thái Hòa)


Nhung vien ngoc quy-ht thai hoa
Thich_Thai_Hoa_2
MỤC LỤC

 

TÁM LÝ DO ĐỨC PHẬT THUYẾT GIẢNG GIÁO NGHĨA ĐẠI THỪA.. 1

VÔ TRƯỚC HẠNH.. 11

ĐẠO TỪ KẾT KHÓA.. 61

THIỆN VÀ ÁC DƯỚI CÁI NHÌN PHẬT GIÁO
ĐẠI THỪA.. 70

HIỂU VỀ SỰ CẦU NGUYỆN TRONG PHẬT GIÁO.. 78

Ý NGHĨA VÀ NỘI DUNG PHÁP HÀNH BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG.. 83

PHÁP NGỮ.. 108

PHÁP NGỮ.. 120

PHÁP NGỮ.. 132

KINH PHẬT LÀ DO ĐỨC PHẬT NÓI 142

NIẾT BÀNTRONG PHẬT GIÁO.. 157


 

 


 

TÁM LÝ DO ĐỨC PHẬT
THUYẾT GIẢNG GIÁO NGHĨA ĐẠI THỪA

Trích Bài 7: Lịch sử tư tưởng triết học Phật giáo Đại thừa,
Hòa thượng Thích Thái Hòa giảng cho Tăng Ni sinh

học viện Phật giáo Việt Nam tại Hà nội.



Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận:

"Bất ký diệc đồng hành

Bất hành diệc thành tựu

Thể, phi thể, năng trị

Văn dị bát nhân thành".

Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó là cách nói thiếu tu hành, thiếu học hỏi, thiếu nghiên cứu và vu khống, chụp mũ.

Điểm thứ nhất là: Bất ký, nghĩa là không dự báo trước. Nếu kinh điển Đại thừa, như một số người cho rằng, là do một số người về sau tạo ra sau khi Phật diệt độ để phá hoại Chánh pháp, thì tại sao trước đó đức Thế tôn không dự báo để cho người sau biết rằng đây là một sự kiện đáng kinh sợ sẽ xảy ra. Rõ ràng đức Phật biết hết, thì đáng lẽ Ngài biết kinh điển Đại thừa do đám ngoại đạo tạo ra để phá hoại Chánh pháp thì Ngài phải dự báo trước; đằng này, đức Phật không hề dự báo điều này. Cho nên rõ ràng kinh điển Đại thừa chính là do đức Phật nói chứ thiên ma ngoại đạo không thể nói và không bao giờ nói được, không thể nào nói được. Thiên ma ngoại đạo làm gì mà nói là có Phật tính, Phật mà con chưa biết thì làm sao biết được Phật tính; Phật mà chưa biết làm gì nói đến Pháp thân; Phật mà chưa biết làm gì nói đến Phật thể; Phật mà chưa biết làm gì nói đến Phật tác dụng. Cho nên ngoại đạo không thể nói; hàng Thanh văn không thể nói; hàng Duyên giác không thể nói; hàng Bồ tát cũng không thể nói. Kinh điển Đại thừa chỉ có chính Phật mới nói.

Thứ hai là: Đồng hành, nghĩa là giáo lý Đại thừa đồng hành với căn bản giáo lý được ghi lại ở trong Nguyên thủy, trong các kinh điển nền tảng, trong A-hàm, trong các văn hệ Nikāya. Chúng ta nhìn sâu vào trong các kinh điển thuộc văn hệ A-hàm, Nikāya thì sẽ thấy trong đó nội hàm kinh điển Đại thừa. Trong Thanh văn tạng hàm chứa cả Đại sĩ tạng, Mật chú tạng. Cho nên Thanh văn tạng, Đại sĩ tạng hay Bồ tát tạng, Mật tạng đều do đức Phật nói. Ngoại đạo không thể nói được các kinh điển này.

Thứ ba là: Bất hành. Những gì mà kinh điển Đại thừa nói là sâu thẳm, là rộng lớn, không phải là cảnh giới của ngoại đạo có thể tư duy đến được. Những cảnh giới mà kinh điển Đại thừa đề cập chưa từng thấy trong các kinh điển ngoại đạo và giả sử chúng ngoại đạo có đề cập đến thì cũng không phải là chỗ tin tưởng và chỗ đáng tin tưởng. Do đó, kinh điển Đại thừa chính là do Phật thuyết.

Thứ tư: Thành tựu. Nếu bảo rằng giáo nghĩa Đại thừa do đức Phật khác chứ không phải đức Phật Thích-ca, đức Phật lịch sử, thuyết là không đúng. Đại thừa vẫn là đức Phật Thích-ca thuyết vì chư Phật đồng với đức Phật Thích-ca một thể tính giác ngộ, cùng một bản nguyện độ sinh. Cho nên những gì chư Phật thuyết cũng chính là đức Phật Thích-ca-mâu-ni thuyết, và những gì là đức Phật Thích-ca-mâu-ni thuyết đồng thời cũng là chư Phật mười phương ba đời đồng thuyết. Điều này, nếu chúng ta đọc trong văn hệ A-hàm, Nikāya sẽ thấy, nhất là trong Đại bản duyên.

Thứ năm là: Thể. Đã nêu kinh điển Đại thừa thì phải có thực thể của kinh ấy. Nếu hiểu thực thể thì phải hiểu thực thể của kinh điển Đại thừa chính do Phật thuyết chứ không thể hiểu kinh điển Đại thừa ngoài thực thể Phật thuyết này. Thể của Vô thường, thể của Không, thể của Vô ngã là gì. Tất cả những điều đó đều chứa đựng ở trong kinh điển Đại thừa. Vì vậy mà nhìn vào thể tính của kinh thì biết rằng kinh điển Đại thừa ấy chính là do đức Phật thuyết chứ không thể là ngoại đạo thuyết hay những hàng Thanh văn, Duyên giác, Bồ tát thuyết.

Thứ sáu là: Phi thể. Nếu không có giáo nghĩa Đại thừa thì giáo nghĩa Thanh văn không thể tồn tại vì Thanh văn do đức Phật nói. Mà đức Phật nói giáo nghĩa Thanh văn là từ nơi thực thể giác ngộ của Phật và từ nơi thực thể giác ngộ của Phật mà Phật nói về giáo nghĩa Thanh văn. Cho nên không có Phật thì không có Thanh văn. Thanh văn là học trò của Phật. Không có thầy thì làm gì có học trò. Học trò được thành là do thầy tác thành; Thanh văn là do Phật tác thành. Mà Phật nói giáo nghĩa Thanh văn, nghĩa là Ngài đã thành Phật mới nói. Ngoài Phật, không ai nói giáo nghĩa Thanh văn. Thành Phật, giáo nghĩa ca ngợi sự thành Phật và ca ngợi toàn giác, công hạnh của Bậc toàn giác, đó là giáo nghĩa Đại thừa. Chẳng lẽ ngoại đạo đi ca ngợi Phật sao, làm gì có ngoại đạo nào đi ca ngợi Phật. Cho nên bất cứ điều gì mà đức Phật dạy suốt bốn mươi chín năm theo tư liệu Bắc truyền, bốn mươi lăm năm theo tư liệu Nam truyền đều là chân lý. Các nhà Phật học phán giáo rằng thời kỳ từ năm thứ nhất sau Thế tôn thành đạo cho đến năm thứ mười hai là thời kỳ đức Phật nói về Tạng giáo hay Thỉ giáo, đó là kho tàng giáo lý Nguyên thủy. Sau này một số học giả phân tích và chia chẻ ra giáo lý Nguyên thủy là giáo lý mà từ khi Phật thành đạo đến khi Niết bàn và một trăm năm sau Phật giáo bộ phái phân hóa, phân tích này chỉ có giá trị nghiên cứu của các học giả nhưng không đúng với giáo lý đức Phật dạy, không đúng với lịch sử đức Phật thuyết pháp. Các nhà phán giáo của Phật giáo có thẩm quyền thì nói rằng những gì đức Phật nói sau khi Ngài chuyển vận Pháp luân tại vườn Nai cho đến mười hai năm thì gọi là thời kỳ Phật giáo nguyên thủy, là Tạng giáo, là Thỉ giáo. Các thầy các cô phải nhớ những điểm này để đừng bị cái đám học giả nghiên cứu bên ngoài đánh lừa, rồi đi lạc hướng, rồi bắt chước họ nói thuội. Cho nên phải học hành đâu ra đó, cái gì biết thì nói, không biết thì thôi, nghiên cứu cho kỹ lưỡng rồi nói, đừng có nói thuội người ta. Đương nhiên, người đời nghiên cứu, họ ưa nói gì thì nói, đó là chuyện của họ. Nhưng mình là người trong nhà, phải biết thấu đáo.

Thứ bảy là: Năng trị. Những ai mà y chỉ vào kinh điển Đại thừa để tu tập đều có thể chứng đắc được Trí tuệ vô phân biệt. Và pháp đó có khả năng đối trị, chuyển hóa các loại phiền não chướng và sở tri chướng. Và pháp Đại thừa không tu thì thôi, tu là có an lạc ngay trong mỗi hành động của chính mình, trong mỗi động tác của chính mình. Vì lợi ích chúng sinh mà tu, hành động vì lợi ích chúng sinh mà làm, chỉ chừng đó thôi thì mỗi hành động của người tu đã có một giá trị vượt hẳn mọi hành động của thế gian, của ngoại đạo. Vì lợi ích của chúng sinh mà tụng kinh, vì lợi ích của chúng sinh mà ngồi thiền, vì lợi ích của chúng sinh mà niệm Phật, vì lợi ích của chúng sinh mà ăn chay, vì lợi ích của chúng sinh mà xây chùa, vì lợi ích của chúng sinh mà tạc hình tượng Phật, Bồ tát, Thánh hiền, vì lợi ích của chúng sinh mà chú các đại hồng chung…, tất cả là vì lợi ích chúng sinh nên nghĩ tới những hành động đó là đã có hạnh phúc rồi. Nên pháp Đại thừa là pháp năng trị, có nghĩa là có khả năng trị liệu tất cả những loại phiền não, những sở tri chướng để đưa tới hạnh phúc, đưa tới an lạc ngay trong đời này và vô lượng kiếp về sau trong dòng chảy của đại hạnh và đại nguyện. Do đó phải tin rằng Đại thừa chính do Phật thuyết, bởi vì đức Phật nói Ngài ra đời vì lợi ích chúng sinh, vì lợi ích cho đa số. Như trong văn hệ A-hàm và Nikāya xác định sự ra đời của đức Phật: có một vị ra đời lợi ích cho đa số, an lạc cho đa số, đó là Như lai, A-la-hán, Bậc chánh biến giác. Và Ngài ra đời để làm gì, để hàn gắn lại những gì mà thế gian đã đổ vỡ, để dụng đứng lại những gì mà thế gian đã bị xiêu vẹo, bật ngọn đèn cho mọi người thấy và chỉ đường cho mọi người đi. Cho nên sự có mặt của đức Thế tôn cũng như giáo pháp do Ngài tuyên thuyết có tác dụng năng trị, tức là trị liệu những nhận thức sai lầm của chúng sinh cho chúng sinh để đưa chúng sinh tới với trí tuệ của Bậc toàn giác.

Thứ tám: Nghĩa khác văn. Ý nghĩa Đại thừa được nói trong các kinh điển thật sâu xa, thâm diệu, rộng lớn, không thể dựa vào văn từ để mà nắm bắt ý nghĩa. Nếu chúng ta phân tích văn từ để hiểu giáo pháp của Phật thì càng phân tích là càng sai vì giáo pháp, chân lý không nằm nơi ngôn ngữ. Trái mít sinh ra từ cây mít, nhưng chúng ta chẻ cây mít ra để tìm trái mít thì vĩnh viễn không bao giờ tìm thấy. Cây mít sinh ra, lớn lên từ hạt mít nhưng phân tích, chia chẻ để tìm cây mít trong hạt mít thì tìm hoài không thấy bởi vì thể tính của cây mít vốn không, đủ duyên thì nó khởi, đúng thời nó hiện ra. Cho nên nếu chúng ta chỉ hiểu ngôn ngữ, phân tích ngôn ngữ để tìm giáo nghĩa Phật dạy trong đó thì tìm mấy cũng không ra. Văn chỉ là biểu tượng để diễn tả ý tưởng. Các kinh điển thường nói "nhất thiết tu-đa-la như tiêu nguyệt chỉ", hết thảy kinh điển như ngón tay chỉ mặt trăng, thông qua ngón tay mà thấy mặt trăng, nhưng phân tích ngón tay để thấy mặt trăng thì vĩnh viễn không thấy. Có nhiều người tìm mặt trăng nơi ngón tay chỉ mặt trăng và tìm hoài không ra thì bắt đầu phỉ báng. Đó là lý do nhiều người phỉ báng giáo nghĩa Đại thừa, là vì do ngu mà phỉ báng, do tà kiến mà phỉ báng. Nên chỉ có ngoại đạo mới phỉ báng Đại thừa. Vì Đại thừa nói tất cả chúng sanh đều có Phật tính, đều có khả năng thành Phật và giáo nghĩa Đại thừa là làm lợi ích chúng sinh, vì chúng sinh mà làm lợi ích, mà dùng đủ mọi phương tiện để nói lên giá trị chân nghĩa này, ý nghĩa chân thật này.

Đó là tám nguyên nhân, tám lý do khiến đức Phật nói giáo nghĩa Đại thừa.



pdf icon-2

Những Viên Ngọc Quý_HT Thích Thái Hòa_2022




Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2021(Xem: 14566)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 10998)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 15905)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
09/03/2021(Xem: 6006)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
29/11/2020(Xem: 12213)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7556)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19421)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
23/03/2020(Xem: 9983)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11580)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
06/01/2020(Xem: 10551)
Đức Tổng Giám mục Colombo, Đức Hồng Y Malcolm Ranjith người Sri Lanka,Chủ tịch Hội đồng Giám mục Sri Lanka, phục vụ Giáo hội Công giáo La Mã của Thánh Matthew ở Ekala, Sri Lanka, gần đây đã nói điều gì đó dọc theo dòng “Nhân quyền đã trở thành tôn giáo mới nhất ở phương Tây. . . Người dân Sri Lanka đã nghiêng về con người thông qua Phật giáo, truyền thống tôn giáo chính thống của họ đã trải qua hàng nghìn năm lịch sử. . . Những người không thực hành tôn giáo là những người bị treo lên Nhân quyền”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567