Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

41. Bồ Tát Quán Thế Âm (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm ghi chép các điểm chính)

02/08/202008:55(Xem: 16457)
41. Bồ Tát Quán Thế Âm (bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng, do đệ tử Quảng Tịnh Tâm ghi chép các điểm chính)


41_TT Thich Nguyen Tang_Bo Tat Quan The Am-5



Nam Mô A Di Đà Phật

 

Kính bạch Sư Phụ,

Bạch Sư Phụ, hôm nay SP giảng bài kệ thứ 41:


Bồ Tát Quán Thế Âm

Quan Âm Bồ Tát diệu nan thù

Thanh tịnh trang nghiêm lụy kiếp tu

Thiên xứ hữu cầu thiên xứ ứng

Khổ hải thường túc độ nhơn châu.

 

Thần lực Quán Thế Âm

Không có gì sánh được

Vô lượng kiếp huân tu

Cực trang nghiêm thanh tịnh

Ngàn nơi tiếng kêu cầu

Ngàn nơi Ngài ứng hiện

Nơi biển khổ mênh mông

Thường hiện thân cứu khổ

Nhất tâm đảnh lễ Đại từ Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát Ma Ha Tát

 

Tiền thân Bồ Tát Quán Thế Âm là thái tử, con Vua Vô Tránh Niệm, Vua Vô Tránh Niệm là đệ tử của Phật Bảo Tạng.
Khi nghe Phật Bảo Tạng thuyết pháp, thái tử phát tâm xuất gia, và phát 12 đại Nguyện.

Theo kinh Thiên thủ thiên nhãn, Bồ Tát Quan Âm là vị cổ Phật có danh hiệu là Quá Khứ Chánh Pháp Minh Như Lai.

Trên đỉnh đầu của Bồ Tát luôn có hình Phật,

Tương ứng với tất cả hành giả trong tâm trí luôn có Phật,

Ngàn tay biểu trưng Đại Bi sẵn sàng cứu độ,

Ngàn mắt biểu trưng Đại Trí soi chiếu khắp thế gian.

Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa diễn tả thần lực của Ngài Quan Âm có thể đáp ứng, hóa giải:

-Nhị cầu: Cầu sinh con trai hay con gái ( Biểu tượng cho trượng phu và thục nữ)

- Thất nạn: lửa cháy, nước cuốn trôi, la sát, đâm chém dao gậy, gông cùm, ma quỷ ám hại, giặc cướp. (biểu tượng cho tướng và tánh).


Về Sự
: Đã diễn ra bao nhiêu câu chuyện linh ứng. Hoà Thượng Tịnh Từ đã có xuất bản tập sách Những Câu Chuyện Linh Ứng, trong đó Hòa thương ghi lại những câu chuyện có thật về sự cứu độ linh ứng của Bồ Tát Quán Thế Âm. Câu chuyện điển hình nhất là Sư Phụ của Hòa Thượng đi tu là do cảm ứng với Bồ tát Quan Âm:

- Hòa Thượng Viên Giác (Sư phụ của HT Tịnh Từ), trước khi xuất gia là kỹ sư đường sắt, lúc ông phụ trách thay một đoạn đường xe lửa, vừa tháo bỏ xong thì được thông báo có chuyến có tiếng xe lửa sắp chạy tới, dầu đã có thông báo là đoạn đường đang sửa, hoảng hốt ông kỷ sư chỉ kịp cho đắp đoạn đường mới lên mà không kịp bắt ốc cho chặt. Sau đó ông quỳ xuống khấn lạy Bồ tát Quan Thế Âm cứu nạn, nhìn đoàn xe lửa chạy qua ông vô cùng lo âu sợ hãi. Đoàn tàu đã an toàn chạy qua, nhưng khi toa cuối cùng vừa qua khỏi thì đoạn đường mới lắp bật tung lên và những đoạn sắt bị cong queo.

Sau đó ông kỷ sư vì cảm ửng sự Mầu nhiệm của Ngài Quán Thế Âm, ông xuất gia và trở thành Hoà Thượng Viên Giác, là một đại Sư Việt Nam, Ngài đã viết bộ Lương Hoàng Sám trình cho HT Trí Tịnh giám sửa lại.
Sau này HT Viên Giác nằm mộng thấy Bồ Tát Quán Thế Âm dạy ra chùa Bảo Quốc nhận một đệ tử xuất gia là HT Tịnh Từ.

-HT Tịnh Từ được HT Thiên Ân trụ trì chùa Việt Nam ở Mỹ bảo lãnh, Ngài nhắn HT Tịnh Từ thỉnh một tôn tượng Quán Thế Âm bằng Ngọc đem qua Mỹ. Lúc đó HT Tịnh Từ không có điều kiện để thỉnh tượng Phật, Ngài cầu nguyện Bồ tát Quán Thế Âm. Không ngờ sáng hôm sau có một thí chủ đem một tôn tượng Quán Thế Âm bằng Ngọc cúng dường và bà thí chủ thưa rằng là bà nằm mơ thấy Bồ Tát Quan Thế Âm dạy bà đem đến cúng dường cho Thầy Tịnh Từ.

- Một người nữ tên Hạnh vượt biên cùng gia đình, khi đến trại tỵ nạn ở Phi-líp-pin bị ma nhập, không ăn uống, thường hay cười. Khi đến Mỹ, người nhà đưa đến chùa Từ Quang xin Thầy Tịnh Từ cứu chữa. Thầy để mõ trên đầu người bệnh và tụng 7 biến chú Đại Bi, Ma nhập trong người bệnh tự khai là một cô gái vượt biên chết trên biển và không siêu thoát nên nhập vào cô Hạnh, và có khai tên tuổi với Thầy Tịnh Từ. Thầy làm bài vị thờ ở chùa Từ Quang, sau đó cô Hạnh khỏe lại bình thường.


Về
lý: Sự sân tức, tham ái, thù hận... do lục căn lục trân tác động, niệm Quan Âm Bồ tát để được chánh niệm.

Bồ tát Quan Thế âm luôn luôn có hình Phật trên đầu, về sự là như vậy, về lý là tự chính mỗi chúng sanh  có Phật trên đầu như Ngài, là luôn có Phật trong tâm, là luôn biết sống bằng Bi và Trí, sẵn sàng cứu giúp người, tháo bỏ gông cùm sân hận trong tâm.

Và luôn thường niệm 12 đại nguyện của Bồ Tát Quán Thế Âm :


1- Nam mô hiệu Viên Thông danh tự tại, Quan Âm Như Lai,quảng phát hoằng thệ nguyện: Phát ra đại nguyện rộng lớn để cứu độ chúng sanh; chúng ta phải sống trong tự tại để hành xử, gỡ bỏ ngã chấp và chấp pháp.

(Ngài Yeshi  lúc nằm bệnh viện  vì tim của Ngài lớn ,khó thoát nguy hiểm, Ngài xin  tự rút ống tự tại ra đi.

Ngài Quảng Hiện chuyên về giáo lý Bát Nhã ,  Ngài nằm bệnh viện vì ung thư máu, Ngài xin tự rút ống tự tại ra đi.)

2- Nam mô vô quái ngại, Quan Âm Như Lai, thường cư Nam hải nguyện: Ngài thường ở biển phía Nam để cứu độ chúng sanh.

3- Nam mô trú Ta Bà U Minh Giới ,Quan Âm Như Lai, tầm thanh cứu khổ nguyện: Nghe tiếng kêu cứu của chúng sanh liền tới cứu giúp.

(Trong thời gian vượt biên, nhiều trường hợp cứu độ rất linh thiêng.

4- Nam mô hàng tà ma, trừ yêu quái, Quan Âm Như Lai, năng trừ nguy hiểm nguyện: Hàng tà ma trừ yêu quái, đem lại sự bình an hạnh phúc cho chúng sanh.

5- Nam mô thanh tịnh bình thủy dương liễu, Quan Âm Như Lai, cam lồ sái tâm nguyện: Dùng cành liễu vãy nước cam lồ trong bình tịnh thủy để cứu độ chúng sanh.

6- Nam mô Đại từ bi, năng hỷ xả, Quan Âm Như Lai, thường hành bình đẳng nguyện: Đem lại sự bình đẳng an vui cho tất cả chúng sanh. Biến thường hằng bình đẳng tự chính mình.

7- Nam mô trú dạ tuần vô tổn hoại, Quan Âm Như Lai, thệ diệt tam đồ nguyện: Đêm ngày an trú không bị sự tổn hại, giúp cho chúng sanh thoát qua tam đồ, bát nạn.

8- Nam mô vọng Nam nhầm cầu lễ Bái, Quan Âm Như Lai, già tỏa giải thoát nguyện: Hướng về núi phía Nam lễ bái, lập tức thoát được gông cùm, xiềng xích.

9- Nam mô tạo pháp thuyền du khổ hải, Quan Âm Như Lai, độ tận chúng sanh nguyện: Chèo thuyền vào trong biển khổ để cứu vớt hết tất cả chúng sanh.

10- Nam mô tiền tràng phan, hậu bảo cái ,Quan Âm Như Lai, tiếp dẫn Tây phương nguyện: Lúc lâm chung có Bồ Tát Quan Âm dùng tràng phan bảo cái (cờ lọng) tới tiếp dẫn chúng ta về Tây Phương.

11- Nam mô Vô Lượng Thọ Phật cảnh giới, Quan Âm Như Lai, Di Đà thọ ký nguyện: Quan Âm Như Lai được Đức Phật Di Đà thọ ký sẽ thành Phật ơ cõi Cực Lạc.

12- Nam mô đoan nghiêm thân,vô tỉ trại,  Quan Âm Như Lai, quả tu thập nhị nguyện: Quan Âm Bồ Tát có được thân tướng trang nghiêm là kết quả do tu 12 đại nguyện.

 

Trước thế kỷ thứ 10, tôn tượng Ngài Quan Âm có dáng người nam, tướng trượng Phu, như ở chùa Viên Thông, thuộc Phổ Đà Sơn có 32 tôn tượng hoá thân do Vua Khang Hy cúng dường .

Sau thế kỷ thứ 10, vì do lòng từ bi của Ngài như một người mẹ hiền nên tôn tượng Ngài có tướng nữ, mặc áo trắng để thích hợp với biểu tượng Mẹ Từ Bi. Có tôn tượng Ngài ở Sóc Trăng ( bạch SP, con nhớ không rõ lắm), mặc áo xanh, tôn tượng rất đẹp ( con không nhớ hình ở đâu).

Tôn tượng Ngài Quán Thế Âm dáng người nữ, như người mẹ hiển, gần gũi với chúng sanh, luôn dang tay cứu khổ cứu nạn ở mọi nơi và mọi lúc.'


Trong nhân thế, nhất là người nữ Phật tử, chắc hẳn trong đời cũng đã từng cầu xin Ngài cứu độ, bạch Sư Phụ, con xin suy từ tâm con, không biết có đúng không, con xin sám hối.

Nam mô tầm thanh cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát.

Con kính tri ơn Sư Phụ bỏ thời gian rất nhiều để truyền trao đạo pháp nhiệm mầu giúp hàng đệ tử chúng con được đầy lợi lạc, trưởng dưỡng đạo tâm, trang nghiêm tịnh độ trong lúc bất an vì bệnh dịch covid .

Cung kính,  
Đệ tử Quảng Tịnh Tâm (Montreal, Canada)



1--Tu Vien Quang Duc Youtube channel

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
28/02/2013(Xem: 5074)
Nói về nguồn gốc loài Người, một vấn đề liên quan tới nguồn gốc của chính Tổ-tiên xa xưa lâu đời của chúng ta; nó hết sức khó hiểu cho con người, đã có biết bao người suy nghĩ, nghiên cứu và lý luận để tìm câu trả lời. Ngày nay chúng ta đã có những thuyết trả lời khác nhau như sau:
23/02/2013(Xem: 5843)
Chúng ta cần ghi nhận một điểm thú vị là khi kiến thức khoa học về con người và vũ trụ càng gia tăng thì càng có nhiều bằng chứng được đưa ra để chứng minh giáo lý của Đức Phật là đúng. Phật giáo là con đường giải thoát do Đức Phật khám phá ra. Giáo lý đạo Phật được thể hiện qua Tứ Diệu Đế và Bát Chánh Đạo. Giải thoát bao hàm sự chấm dứt hoàn toàn vòng luân hồi sinh tử. Khoa học là việc nghiên cứu một cách khách quan những qui luật của tự nhiên để đưa ra những nhận định tổng quát và lời giải thích cho các hiện tượng đã được quan sát. Như nhà sinh lý học người Pháp Loeb đã nói :” Mục đích tối hậu của khoa học là để tiên đoán”.
21/01/2013(Xem: 5974)
Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội.
21/01/2013(Xem: 5773)
Tiến sĩ Thupten Jinpa chuyển vai trò thông dịch sang thuyết trình. Ông bắt đầu với lý thuyết Phật giáo thời kỳ sơ khởi về nguyên tử và đề cập đến các xu hướng giản hóa luận trong thời kỳ này. Ông cũng chỉ ra rằng không có bất kỳ quan điểm giản hóa luận nào của các nhà tư tưởng Phật giáo đã quy giản tâm thức về vật chất thuần túy. Nhà hiền triết Aryadeva, đệ tử của đạo sư Long Thọ, đã viết các tranh biện với các luận thuyết thời kỳ sơ khởi là ở trong khía cạnh các quan điểm về tính rời rạc và về lý nhân quả. Trong khuôn khổ của Hai Chân lý thì tất cả các trường phái tư tưởng Phật giáo đều đồng quan điểm về chân lý tương đối và chân lý tuyệt đối. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng nếu Cơ học Lượng tử được luận giải trong bối cảnh này, thì sẽ dễ dàng nắm bắt hơn.
20/01/2013(Xem: 5718)
Hội đàm Tâm thức và Đời sống (Mind and Life) lần thứ 25 về chủ đề “Tâm thức, Bộ não và Vật chất- các đàm luận giữa tư tưởng Phật giáo và Khoa học” diễn ra tại tự viện Drepung ở Mundgod, karnataka, Ấn Độ từ ngày 17 đến 22
31/12/2012(Xem: 6593)
Phật giáo hiện hữu trên đất nước Việt Nam, hơn 2000 năm đồng hành cùng dân tộc. Trải qua nhiều giai đoạn lịch sử thăng trầm của đất nước Phật giáo luôn làm tròn sứ mệnh của một tôn giáo gắn liền với nền văn hoá nước nhà. Chiến tranh đi qua, để lại bao đau thương mất mát, cảnh vật hoang tàn, đời sống nhân dân nghèo đói cơ hàn. Đến thời độc lập, ngoại xâm không cò n nữa, đất nước từng bước chuyển mình đi lên, Phật giáo cũng nhịp nhàn thay màu đổi sắc vươn lên, GHPGVN được ra đời vào ngày 07/11/1981 đến nay gần 22 năm với VI nhiệm kỳ hoạt động của giáo hội.
28/12/2012(Xem: 10259)
Trong bầu không khí trang nghiêm, hòa hợp, thắp sáng niềm tin vào nền giáo dục nhân bản Phật giáo của ngày Hội thảo Giáo dục Phật giáo toàn quốc nhiệm kỳ VI (2007 -2012) của Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương với chuyên đề “Giáo dục Phật giáo Việt Nam định hướng và phát triển”, tôi xin phát biểu một số ý kiến chung quanh vấn đề Giáo dục Phật giáo như sau:
06/11/2012(Xem: 4475)
Điều đó khá rõ ràng, khi chúng ta thấy Đức Phật Ngài không hề tự nhận mình là một thần linh xuống thế để ban phúc giáng họa cho ai cả. Ngài xuất thân cũng chỉ là một chúng sinh bình thường như chúng ta. Nhưng nhờ công phu tu tập nhiều đời, nhiều kiếp, đến đời sống sau cùng Ngài đi nốt con đường Ngài đã chứng ngộ chân lý, khám phá ra tất cả những bí mật của vũ trụ và tìm ra được con đường vượt thoát khỏi sự ràng buộc đó.
22/10/2012(Xem: 4822)
Liệu cá có thể trải nghiệm cảm giác đau? Câu hỏi này nghe có vẻ lạ, nhưng nó vẫn chưa bao giờ được trả lời một cách hoàn chỉnh.
20/09/2012(Xem: 6251)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]