Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Đạo Phật & Khoa Học

09/06/201407:25(Xem: 6199)
Đức Đạt Lai Lạt Ma viết về Đạo Phật & Khoa Học

dalailama-1a
ĐỨC ĐẠT LAI LẠT MA
VIẾT VỀ ĐẠO PHẬT VÀ KHOA HỌC.
Vi Tâm


Đức Đạt Lai Lạt Ma (ĐLLM) viết cả chục cuốn sách, cuốn nào cũng được dịch ra rất nhiều thứ tiếng. Trong những cuốn đã đọc, tôi rất thích cuốn « Cả vũ trụ trong một hạt nhân » (The Universe in a single atom). Tôi thích vì quyển sách đó chứng tỏ tính ham học, sự hiểu biết vô cùng thông thái và lòng cởi mở vị tha của Ngài.

Phần chính cuốn sách bàn về những liên đới giữa các lý thuyết của khoa học cận đại và những nhận xét suy luận về vũ trụ và con người đã viết trong kinh điển Phật giáo Tây Tạng từ ngàn năm về trước. Nhưng ở đây tôi chỉ muốn kể về vài chuyện nhỏ rất lý thú mà Đức ĐLLM đã sống khi Ngài còn nhỏ tuổi. Chuyện Ngài lúc nhỏ tuổi đã máy mó tháo ra lắp lại mấy cái đồng hồ, rồi dùng kính thiên văn ngắm nghía sao trên trời và mặt trăng, rồi học sửa xe ô tô, rồi học lái xe ô tô như thế nào. Những tò mò về kỹ thuật đó đã nuôi trong đầu Ngài lòng ham muốn học hỏi về kỹ thuật rồi về khoa học để sau này thành một Lạt Ma hiểu biết rất nhiều về khoa học hiện đại.

1. Học hành về lịch sử , giáo điều, và triết lý đạo Phật từ hồi 5-6 tuổi. Đức ĐLLM sanh ra trong một gia đình nông dân, chuyên trồng trọt và nuôi gia súc. Năm lên 6 tuổi, Ngài được nhận ra là Đức ĐLLM thứ mười bốn, và được đưa khỏi gia đình vào sống và tu hành trong lâu đài của ĐLLM thứ mười ba trong tỉnh Lhassa. Tại đây Ngài được nhiều vị Thầy chăm lo dạy dỗ. Mỗi ngày phải ngồi thiền trong hai giờ, và ngồi bốn lần một ngày. Ngài học chữ nghĩa, nghi lễ, lịch sử, và triết lý đạo Phật Tây Tạng. Đó là một chương trình đạo tạo chung cho các vị Lạt Ma. Chương trình này không có một tí gì về vật lý, hóa học, hay toán học.

2. Thích dùng và tháo lắp các máy móc. Lúc đó Đức ĐLLM sống trong lâu đài đồ sộ Potala, có đến cả ngàn gian buồng. Vào những giờ nghỉ học Ngài hay lang thang đi phám phá các gian buồng chung quanh, trong đó có chứa nhiều đồ đạc và di vật của các ĐLLM thời trước, nhất là của Đức ĐLLM thứ 13. Trong các cuộc thăm dò đó, nhiều đồ vật đã kích thích tính tò mò của Ngài. Trên hết phải kể là :

1. Một cái đồng hồ cơ khí, lên giây bằng tay, trong đó có nhiều bánh xe xoay vào nhau,

2. Một cái kính thiên văn đồ sộ đặt trên môt cái cột có ba chân,

3. Hai cái máy chiếu phim phải quay bằng tay để lên điện,

4. Ba chiếc xe ô tô, hai xe Baby-Austin kiểu năm 1927, và một chiếc Dodge kiểu năm 1931. Ba chiếc ô tô này được người Anh tặng cho ĐLLM thứ 13. Trong những năm ấy, đó là 3 chiếc xe độc nhất bên Tây Tạng. Khi đó Tây Tạng chưa có đường xá cho xe ô tô, nên họ phải tháo xe thành từng mảnh bên Ấn Độ, cho lên lưng lừa thồ lên núi mang vào lâu đài của Đức ĐLLM rồi lắp các mảnh đó lại thành xe.

Cái kính thiên văn thì quá dễ hiểu. Đức ĐLLM đã đem nó ra ngay sân thượng để ngắm người đi lại dưới thành phố Lhassa. Ngài rất thèm thuồng thấy những đứa trẻ cùng tuổi được thảnh thơi vui đùa dưới phố, trong khi mình cả ngày phải ngồi học. Sau này Ngài rất thành thạo sử dụng máy để ngắm các ngôi sao và mặt trăng. Xứ Tây Tạng ở cao trên núi, đêm về trăng sao hiển rõ mồn một, Ngài say mê ngắm nghía và luôn luôn hỏi han các thầy học cũng là tùy tùng của Ngài về tên các vì sao và các chuỗi sao. Người Tây Tạng sống trên núi cao, nên từ xưa đã rất giỏi về thiên văn. Phần lớn các ngôi sao thấy được trên trời đều có tên bằng tiếng Tây Tạng. Ngắm mặt trăng thì dĩ nhiên thấy nhiều hình thù trên đó. Bên Tây Tạng không có chuyện Hằng Nga và chú cuội, nhưng có chuyện con thỏ trên mặt trăng. Đức ĐLLM quen sống trên đồi núi, bèn nghĩ là mặt trăng cũng có đồi núi thung lũng như trên trái đất và các hình trên mặt trăng là bóng dâm cúa các giẫy núi. Vậy thì phải có ánh sáng từ đâu chiếu vào, và Ngài kết luận ánh sáng chỉ có thể đến từ mặt trời, và bóng dâm trên mặt trăng do mặt trời chiếu nghiêng trên thung lũng đồi núi tạo ra. Một đứa trẻ chỉ học kinh điển giáo lý mà nghỉ ra được như vậy thì quả thật rất thông minh.

Cái đồng hồ nhất là các bộ phận bánh xe liên đới với nhau làm Ngài rất say mê. Ngắm mãi rồi Ngài bèn mày mò tháo mấy cái ốc và bánh xe ra. Nhưng Ngài đã thấy ngay là phải cẩn thận xếp sắp, nếu không thì không lắp lại được. Và Ngài rất tự hào cho là mình giỏi khi tháo cái đồng hồ ra từng mảnh rồi lắp lại thì cái đồng hồ lại… chạy như thường ! Dĩ nhiên chuyện này không qua mắt các vị giảng sư và tùy tùng cùa Ngài. Họ ngạc nhiên và thích thú, bèn … tìm xem ai có đồng hồ bị hư không, đem đến cho Đức ĐLLM sửa. Thế là trong thế giới bé nhỏ của Ngài, Đức ĐLLM đã kín đáo thành một người thợ chữa đồng hồ !

Cái máy chiếu phim quay tay thì khó hiểu hơn. Nhờ một người tùy tùng giúp đỡ, Ngài đã làm chạy được một chiếc và hai người xem các bộ phim rất cũ kỹ của Đức ĐLLM thứ 13 để lại.

Chữa đồng hồ và máy quay phim rồi, Ngài bèn có dự án tham lam hơn là học về máy móc xe hơi. Ngài bèn làm thân với ông tài xế Lhakpa Tsering. Ông này tính tình rất quạu, nhưng lại rất hoan hỷ chỉ dẫn cho Ngài khi ông cặm cụi chữa xe. Những chiếc xe đó chỉ chạy loanh quanh, nhưng ông Tsering vẫn đem ra chữa đi chữa lại. Đức ĐLLM đòi ông ta dạy cho mình lái xe. Một hôm Ngài lén đem chiếc Baby-Austin ra lái một mình. Và gây ra một tai nạn nhỏ, làm bể cái đèn pha phía trước. Ngài hoảng hồn loay hoay đi kiếm được một cái đèn khác thay vào. Nhưng cái đèn này lại có kính trong suốt còn cái đèn bị vỡ thì có kính mờ. Làm sao đây ? Ngài bèn lấy đường đốt thành chất lỏng bôi lên bóng đèn, rồi đem xe cất đi. Làm sao ông Tsering không biết, nhưng ông không hề nói gì. Chỉ thấy cái đèn sau này lại có bóng mờ cháy đàng hoàng như cũ.

3. Đam mê học hỏi về khoa học. Những chuyện trên cho thấy Đức ĐLLM ngay từ nhỏ đã có một đầu óc tò mò và thông minh có sáng kiến. Nhưng đó chỉ là những tò mò về kỹ thuật bé nhỏ. Ngài đã thấy ngay là mình phải học hỏi rất nhiều nên đã vào thư viện đọc sách. Trong thư viện của các thế hệ trước để lại có không biết bao nhiêu sách về khoa học kỹ thuật, tuy không phải là những sách cận đại nhất. Đức ĐLLM đã thấy sau kỹ thuật là khoa học, mà khoa học là cả một thế giới mông mênh rộng lớn không kém gì thế giới của kinh điển mà Ngài đã theo học từ bé đến giờ.

Đến năm 16 tuổi, Đức ĐLLM chính thức lên làm chủ xứ Tây Tạng và được mời đi thăm nhiều nước chung quanh. Sang Trung Hoa, Ngài gặp Mao Trạch Đông và Chu Ân Lai, được thấy các đường xá rộng lớn, xem các nhà thủy điện và các xưởng máy tối tân. Lúc đó Trung Hoa đã dòm ngó và bắt đầu gây hấn với Tây Tạng. Qua Ấn Độ Ngài đã gặp ông Nehru. Nehru hiểu biết rất nhiều về khoa học, đã trở thành một người bạn thiết, sau này đã đón Ngài về ngụ tại Darhamsala bên Ấn Độ khi Đức ĐLLM phải trốn khỏi xứ mình vì Tây Tạng bị Trung Hoa dùng võ lực cưỡng chiếm.

Trong suốt đời lưu vong bên Ấn, Đức ĐLLM được thế giới thông cảm trọng vọng, mời đi giảng dạy mọi nơi. Đến đâu Ngài cũng có hai mục đích : được đàm đạo về Phật Giáo với mọi người và được gặp các nhà khoa học. Khi đến đọc diễn văn tại một nơi nào người ta cũng hỏi trước : « thế trong những buổi nghỉ ngơi, Ngài muốn đi thăm thú ở đâu », thì Đức ĐLLM đều trả lời : « Tôi muốn gặp nhà bác học này, nhà bác học kia, ở gần đây ». Và các nhà bác học đó khi được tin đều rất hân hạnh hoan hỉ đến gặp.

4. Chương trình Mind and Life. Đức ĐLLM đã gặp và trở nên bạn thân của nhiều nhà khoa học nổi tiếng. Nhưng mỗi khi gặp, hai bên chỉ nói chuyện vài giờ. Đến năm 1987, nhà khảo cứu não bộ Francisco Varela và thương gia Adam Engle mới đề nghị Ngài tổ chức một hội nghị nhỏ để Ngài và các khoa học gia có nhiều thì giờ cùng nhau đàm đạo.

Thế là các buổi hội thảo “Mind and Life” được ra đời. Mind nghìa là ý, ý nghĩ, suy nghĩ, khả năng suy tưởng, còn Life là Sống, Đời sống, Sự sống. Cứ hai năm hai bên (một bên là các nhà khoa học muốn hiểu về triết lý đạo Phật, và một bên là Đức ĐLLM và cộng sự) lại họp một lần tại Darhamsala trong trọn một tuần lễ đề thảo luận về các phát minh mới trong khoa học vật lý và những ý tưởng triết lý vũ trụ nhân sinh đã được ghi lại từ các kinh điển trong Phật Giáo. Ông Barry Hershey đã đứng ra lo hết mọi phí tổn và học viện “Mind and Life” còn hoạt động tiếp tục đến nay.

5. Những yếu tố cho sự thích thú của các cuộc đàm đạo. Có ít nhất 4 lý do các buổi trao đổi này đem thích thú cho những người đã được tham dự :

(i) Đức ĐLLM là một kho tàng của hiểu biết về đạo Phật Tây Tạng. Ngài được giáo huấn vô cùng nghiêm túc từ hồi nhỏ, và đã giầy công học tập cho đến tuổi trưởng thành. Ngài có cho tên những vị thầy đã giáo huấn mình : Tadrak Rimpoché, Ling Rimpoché, Trijang Rimpoché, Ngodrup Tsoknyi,…, và viết về họ với lòng biết ơn sâu sa. Tôi không hề nghe tên các vị đó, nhưng cũng hiểu đó là những học giả uyên bác nhất của Tây Tạng bấy giờ.

(ii) Về phía các nhà khoa học, thì có nhiều người khá nổi tiếng : Carl von Weisacker (cộng sự viên của Werner Heisenberg), David Bohm, Francisco Varela đã nói ở trên, các khoa học gia như Anton Zeilinger, Pierre Hut, David Finkelstein, Georges Greenstein, và rất nhiều người nữa.

(iii) Khoảng thời điểm hai bên gặp nhau, có 2 thuyết vật lý vừa mới ra đã làm rung động nền khoa học vật lý: đó là thuyết tương đối của Einstein và thuyết vật lý nguyên tử. Một thuyết về thế giới bao la của các hành tinh và các vì sao, một thuyết về thế giới vô cùng bé nhỏ của các hạt nhân. Hai thái cực xa vời với đời sống thường ngày của chúng ta. Hai thuyết trên đã đưa ra những giả thiết hoàn toàn mới lạ đưa khoa học vật lý đến những phát minh vượt mức.
Thuyết tương đối nói có thể có 2 thế giới khác nhau A và B. Thế giới A với tọa độ không gian ba chiều (x,y,z) và thời gian, t. Thế giới B với tọa độ không gian ba chiều (x’,y’, z’) và thời gian khác, t’. Có những luật biến động viết cùng phương trình y chang trong hai thế giới A và B. Các bạn ai không biết chuyện Từ Thức theo mấy bà tiên xinh đẹp lên Thiên Thai chơi rỡn mấy năm. Khi về thì thấy những bạn bè dưới trần đều đã già khọm cả rồi. Ai ngờ chuyện đó có thể cắt nghĩa bởi thuyết tương đối của Einstein ! (quyến sách của Đức ĐLLM không nói về Từ Thức và Thiên Thai, đó là tôi thêm vào !)

Về thuyết hạt nhân, một khám phá kinh ngạc là trong thế giới bé nhỏ đó, mình không thể định được vị trí của một hạt nhân tại một thời điểm định trước. Hạt nhân có thể ở đó có thể không ở đó. Nhà quan sát chỉ có thể biết nó có thể ở đó với một “sác xuất”. Khi cách đo cho một kết quả càng chính sác về vị trí của hạt nhân thì lại cho một kết quả càng kém chính sác về tốc độ của hạt nhân. Kết quả của đo lường tùy thuộc cách đo và cái máy mình dùng để đo: đo cách nào đi nữa, hễ đo là can thiệp vào kết quả,. Vậy là người quan sát không thể đứng ngoài thực thể mình quan sát. Vũ trụ của các hạt nhân không còn một thế giới khách quan nữa. Điều này khác hẳn với thế giới chúng ta quen sống thường ngày.
Đức ĐLLM dẫn chứng rằng nhiều ý tưởng cận đại trong khoa học đã được bàn đến trong kinh điển Tây Tạng từ ngàn xưa. Như các ý niệm về hạt nhân, về hành tinh, mặt trời, thiên văn, nguồn gốc của vũ trụ. Ngài giảng về luật nhân quả, phép duyên khởi, chữ vô, cái “rỗng” và cái “đầy”, quan niệm người và vũ trụ là một, con người đã thuộc vào vũ trụ mình quan sát, ý niệm vô ngã, vô thường.

(iv) Các nhà khoa học không biết nhiều về đạo Phật, nên đức ĐLLM phải tìm các từ ngữ và suy luận sao cho dễ hiểu. Mặt khác, Đức ĐLLM không biết nhiều về khoa học, lại không hề học toán, nên các khoa học gia cũng phải tìm cách trình bầy sao cho dễ hiểu đối với Ngài. Vì lòng nể trọng với nhau, hai bên đã hết sức cố gắng trong một bầu không khí thân thiện và cới mở.

6. Hai bên đã hiểu nhau đến chừng nào. Muốn trả lời câu này các bạn phải đọc quyển sách. Đức ĐLLM than thở “Các vị giảng giải cho tôi thì tôi có cảm tưởng hiểu được một phần nào. Nhưng khi các vị đi thì lại đem những hiểu biết đó đi với các vị, chẳng để lại bao nhiêu cho tôi”. Các nhà khoa học nói : “Ngài đừng bận tâm, đến nay chưa ai dám nói rằng đã hiểu thấu đáo các lý thuyết vật lý học !”. Tôi đoán các nhà khoa học cũng đã nói : “Gặp Ngài, chúng tôi đã hiểu thêm về triết lý đạo Phật. Nhưng khi Ngài ra đi thì cũng đem kinh điển đi với Ngài chứ không để lại bao nhiêu trong đầu chúng tôi”. Và Đức ĐLLM cũng đã nói tiếp : “Các vị yên tâm, vì đến nay chưa ai dám nói đã hiểu thấu đáo chữ Vô trong đạo Phật”.

Vậy là hai bên cùng ham học và cùng khiêm tốn. Hai bên đã gần lại nhau, và những thảo luận này chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến những phương pháp học hành và khảo cứu của cả đôi bên.

Những điều tôi bàn chỉ là vài chục trang trong quyển sách. Quyến sách có 200 trang. Các bạn tìm mà đọc đi. Không ai hiểu hết quyển này đâu mà lo !

Vi Tâm

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/09/2010(Xem: 5361)
Hội nghị này về sinh thái học thật cực kỳ đáng giá. Chúng tôi nhận thức tính cấp bách trên vấn đề bảo tồn sự cân bằng của môi trường, và tin tưởng rằng nếu chúng ta xao lãng, toàn thể thế giới sẽ khổ đau. Do bởi sự giàu có vật chất và kết quả của những vấn đề môi trường được thấy ở Phương Tây, những ai đấy đã nói rằng chúng ta cần thu xếp lối sống hiện đại lại.
04/09/2010(Xem: 3407)
Trong quá khứ sự cần thiết chủ yếu của con người là đất trồng trọt. Người ta không phải nghĩ đến những thứ nhân tạo. Tuy thế, những tác động có hại đến rừng vì dân số đông đảo và sự phát triển những loại hóa chất khác nhau trong không khí đã dẫn đến những loại mưa bất thường và trái đất ấm dần lên.
03/09/2010(Xem: 5530)
Những tiên đoán khoa học về thay đổi môi trường khó khăn cho những con người bình thường nhận thức thấu đáo một cách trọn vẹn. Chúng ta nghe về nhiệt độ nóng bức và mực nước biển dâng cao, tỉ lệ ung thư nâng cao, sự gia tăng dân số, tài nguyên cạn kiệt, sự tuyệt diệt của những chủng loại. Con người hoạt động khắp mọi nơi đang thúc đẩy nhanh chóng sự hủy diệt những yếu tố chìa khóa chính yếu của môi trường sinh thái tự nhiên mà tất cả các chủng loại phụ thuộc vào.
31/08/2010(Xem: 3650)
Môi sinh tương đối là một khoa học mới liên hệ đến nhiều nguyên lý điều hành các mối liên hệ giữa các sinh thể và Môi sinh. Có nhiều định nghĩa về Môi sinh. - đây chỉ đơn cử một số. P. D. Sharma (F.N.I.E., Ban (Khoa) Thực vật học, Đại học Delhi) đã viết trong tập sách của ông nhan đề "Sinh thái học và Môi sinh" rằng: "Ngày nay Sinh thái học đã và đang đóng góp rất nhiều cho các chính sách về xã hội, kinh tế, chính trị và các chính sách tương tự của thế giới. Thật rất phổ biến khi kiếm tìm các tham khảo về sinh thái học trong các bài viết, tạp chí, tuần báo và nhật báo về xã hội, kinh tế học.
30/08/2010(Xem: 5931)
Đức Phật có đề cập gì đến sinh hoạt kinh tế hay không. Khi theo dõi những hậu quả của kinh tế thị trường, tôi còn phải đi tìm hiểu lập trường của Phật giáo về các vấn đề môi sinh, nhất là đối với việc khai thác tài nguyên không tái tạo, thái độ đối với sự nghèo khổ (và những chế độ chính trị đưa đến nghèo khổ), đối với chủ trương tiêu thụ hàng hóa thả cửa, đối với công ăn việc làm, vai trò của từ bi trong các hoạt động thương mãi và cuối cùng đến một câu hỏi tối hậu mà mọi tôn giáo đều muốn có câu trả lời: ý nghĩa của đời sống là gì?
28/08/2010(Xem: 63001)
Quyển 6 • Buổi Pháp Thoại Trên Đỉnh Cao Linh Thứu (Gijjhakūṭa) • Ruộng Phước • Tuệ Phân Tích Của Tôn Giả Sāriputta • MÙA AN CƯ THỨ MƯỜI CHÍN (Năm 569 trước TL)- Mỹ Nhân Giá Mấy Xu? • Chuyện Cô Sirimā • Móc Cho Con Mắt Đẹp • Ngạ Quỷ Mình Trăn • Cùng Một Nguyên Lý • “Hớt” Phước Của Người Nghèo! • Ghi chú đặc biệt về hạ thứ 19: • MÙA AN CƯ THỨ HAI MƯƠI (Năm 568 trước TL)-Phước Cho Quả Hiện Tại • Bảy Thánh Sản • Chuyện Kể Về Cõi Trời • Hóa Độ Gia Đình Thợ Săn • Nhân Duyên Quá Khứ
28/08/2010(Xem: 59152)
Sau khi sinh hoạt của hội chúng đã tạm thời đi vào quy củ, nền nếp; đức Phật thấy thời tiết có nắng nhẹ, trời không lạnh lắm, thuận lợi cho việc du hành nên quyết định rời Gayāsīsa, đến kinh đô Rājagaha, đường xa chừng sáu do-tuần. Thấy đoàn sa-môn quá đông, khó khăn cho việc khất thực, đức Phật gợi ý với ba anh em Kassapa cho chúng đệ tử phân thành từng nhóm,
27/08/2010(Xem: 10578)
Theo quan kiến của các luận sư Phật học, kinh điển của Phật giáo Đại thừa, thì phần văn lý hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu xa và linh hoạt như: các bộ Kinh Hoa Nghiêm, Duy Ma, Pháp Hoa… được xây dựng trên tinh thần phát triển nội dung nên giáo lý được phân định theo hai phần: Phương tiện môn và Chân thật môn. Về phương tiện môn, như có lần đức Phật ví pháp đó như nắm lá trong tay đã rời khỏi sự sống, còn sự hiểu biết và diệu dụng của Ngài như lá trong rừng luôn luôn xanh tươi, vận hành theo bốn mùa.
03/08/2010(Xem: 14169)
Mặc dù được xem như là một tôn giáo, thì Phật giáo vẫn là một trong các truyền thống tri kiến vĩ đại nhất của thế giới, được dựa trên cơ sở về trải nghiệm và lập luận hơn là việc tin tưởng không điều kiện vào thần quyền. Trong nhiều thế kỷ, đạo Phật đã đối thoại với các truyền thống khác ở châu Á như là Ấn giáo, Khổng giáo và Lão giáo, đó là các truyền thống vốn có các luận điểm riêng về thực tại. Nhưng đến kỷ nguyên mới này, thì sự thống trị lại thuộc về khoa học hiện đại vốn là một hệ thống truy cứu và tri kiến về thế giới tự nhiên một cách có lập luận, cho nên nếu muốn duy trì vị thế sẵn có như là một truyền thống thực nghiệm và tập luận truy cứu nghiêm cẩn, thì Phật giáo phải đối mặt với khoa học.
20/07/2010(Xem: 17045)
Với quyển Phật Pháp Cho Mọi Người, chúng tôi tương đối đã đạt được phần nào kết quả khi có thể mang những bài pháp thoại của nhiều tác giả đến với người đọc, nhất là những người sơ cơ như chúng tôi. Cũng đã ba năm kể từ quyển sách đó được phát hành, cũng đã có thêm nhiều bài pháp được chúng tôi chuyển ngữ. Theo sự gợi ý của một số thân hữu, lần này chúng tôi cũng xin tổng hợp các bài dịch rải rác đó đây để mang đến cho quý độc giả xa gần một luồng gió mát của chân Pháp. Mong là chúng tôi không phụ lòng mong đợi của quý độc giả. Dầu đã hết sức cố gắng, nhưng chúng tôi chắc rằng sẽ khó thể tránh những thiếu sót trong phần dịch thuật và biên tập, mong quý tôn sư, quý độc giả hoan hỷ chỉ bày. Lần nữa chúng tôi xin cảm tạ quý đạo hữu luôn chung tay với chúng tôi trong Phật sự này, để một số sách luôn đến tay quý độc giả dưới dạng ấn tống. Nguyện cho phước báu trong Pháp thí này được chia sẻ đến chư thiên, quý ân sư, quý ân nhân, đạo hữu, thân quyến và mọi chúng sanh. Na
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]