Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ðạo Phật và Khoa Học

07/05/201408:07(Xem: 8536)
Ðạo Phật và Khoa Học

 Buddha_14

 


Thời đại của chúng ta là thời đại khoa học, văn minh của nhân loại đã tiến bộ vượt bậc. Nền khoa học tiên tiến phát triển với tốc độ vũ bão tại các nước văn minh. Khoa học phát triển đã chứng minh được những điều Phật dạy. Nếu chúng ta đến với đạo Phật thuần túy bằng đức tin thì chỉ là bước đầu, bởi vì bản chất của đạo Phật là giác ngộ. Giác ngộ của đức Phật dưới cội bồ đề đã khai sinh ra Đạo giác ngộ, nên Phật tử càng không phải là người mê tối. Sau 49 ngày thiền định, Ngài hoát nhiên đại ngộ và tuyên bố: “Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc làm đã xong”. Ngài đã giác ngộ, sống tự tại và vô nhiễm giữa cuộc đời. Ngài đã đem ánh sáng giác ngộ đến với muôn loài. Ánh sáng giác ngộ của đức Phật đã soi rọi nhân thế và chỉ đường cho chúng sanh đi. Chưa bao giờ đạo Phật dùng giáo quyền để bắt buộc tín đồ theo tôn giáo mình. Đạo Phật không phải là tôn giáo thần quyền. Đạo Phật nghiễm nhiên tồn tại không phải xây dựng từ đức tin thuần túy mà bằng trí tuệ, bằng sự giác ngộ. Giáo lý nhà Phật có công năng tháo gỡ tất cả mọi vướng mắc, vướng nhiễm của chúng ta trong cuộc đời. Nền khoa học tiên tiến của thế giới hiện đại đã soi rọi vào lẽ thật của các pháp. Nếu đem ánh sáng khoa học soi rọi thì dễ dàng nhận biết tính minh triết của đạo Phật. Khi nghe và hiểu đạo lý vô thường, duyên sinh, vô ngã, như huyễn, như mộng thì mới thấy rằng thế giới này là thế giới ảo và đời như một giấc chiêm bao.

Mỗi người sinh ra trong cuộc đời này đều mong muốn bản thân mình được hạnh phúc. Mỗi người đều cần hạnh phúc, có người mưu cầu danh lợi, muốn mình có được địa vị trong xã hội, trong khi người khác chỉ ước muốn giản đơn là có cơm ăn áo mặc, đời sống lành mạnh, tự do. Có người cho rằng chỉ cần có đạo đức, hiểu được lẽ thật của nhân sinh vũ trụ, bước ra khỏi nhiễm nhơ của trần thế, sống xuất thế gian thì đó mới là hạnh phúc của đời họ. Như vậy phải chăng nhân loại đang cố công đi tìm hạnh phúc. Cho đến các nhà tư tưởng, triết học, khoa học cũng có lý tưởng hạnh phúc của riêng họ. Có người chỉ muốn theo đuổi tri thức để nghiên cứu và khám phá một trong các ngành như: Toán học, khoa học máy tính, vật lý, hóa học, thiên văn học, công nghệ sinh học, y dược học... Trong khi người khác chỉ ham muốn theo đuổi mục đích làm nghệ thuật như: họa sĩ, thi sĩ, văn sĩ, nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên... Rõ ràng ai ai cũng muốn có hạnh phúc để được một đời sống trong lặng, bình an, lành mạnh, tự do nhưng mấy ai tìm được hạnh phúc chân thật vững bền. Cho nên người Phật tử đến chùa tu tập cần được giác ngộ giải thoát, đó mới chính là hạnh phúc cứu cánh, vì có tu tập mới thấy được đạo lý, rồi khi ánh sáng giác ngộ bùng lên sẽ không còn mê lầm và ngu tối, thoát khỏi ràng buộc thế gian, từ đó sống cuộc đời thong dong và tự tại trong thế giới siêu nhiên.

 Phân tích mọi khía cạnh giữa đạo Phật và khoa học, có thể nói: Khoa học ngày nay đã đi sâu vào nghiên cứu thực nghiệm, ưu điểm của khoa học là khám phá ra thế giới tự nhiên rồi chế tạo ra các ngành công kĩ nghệ, sản xuất mọi tiện nghi cung ứng cho đời sống con người bằng cách chế tạo máy móc hoặc dụng cụ tối tân giúp con người đỡ mệt nhọc trong lao động, rút ngắn được thời gian làm việc, đi lại dễ dàng và nhanh chóng hơn bằng những phương tiện giao thông hiện đại. Con người dù ở cách xa nhau hàng ngàn, hàng vạn cây số vẫn có thể liên lạc được với nhau bằng các phương tiện truyền thông hiện đại. Nhưng mặt trái của khoa học đã đem đến cho con người những căng thẳng lo âu hoặc khủng hoảng tinh thần. Chiến tranh hạt nhân đã tố cáo nền khoa học tiên tiến nước Mỹ gây ra thảm họa khủng khiếp về việc ném bom nguyên tử xuống hai thành phố Hiroshima và Nagasaki làm cướp đi mạng sống của gần nửa triệu người dân Nhật Bản, thêm gần 100.000 người bị chết do nhiễm phóng xạ nguyên tử.

Nhiều người bị stress, căng thẳng thần kinh, tâm lý trầm cảm trong khi cuộc sống của họ kếch sù về tài chánh. Nền văn minh nhân loại đang trên đà phát triển rực rỡ khi khoa học phục vụ đầy đủ mọi tiện nghi cuộc sống và đưa con người đến đỉnh điểm ngút cao của sự hưởng thụ, nhưng liệu có còn nuôi dưỡng phiền não hoặc đã buông hết nghiệp chướng chưa? Hiện tượng tan băng Bắc Cực cũng là hậu quả của nền khoa học tiên tiến, các ngành công nghiệp nhả khói, xả khí thải ô nhiễm ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống và sản xuất nông nghiệp của nhân dân. Hiện nay bầu không khí không còn trong lành như trước đây nữa, nguồn nước và mặt đất cũng không còn trong sạch, rau quả bị xịt thuốc trừ sâu, bón phân hóa học. Khoa học đã xây dựng những nhà máy vĩ đại thải khói bụi và chất ô nhiễm vào không khí làm ô nhiễm bầu trời, nguồn nước, mặt đất và phá hoại môi sinh. Khoa học không ngăn chặn được tham-sân-si, phiền não, vô minh mà chỉ nuôi dưỡng tấm thân tạm bợ mong manh vô thường nay còn mai mất, đủ duyên thì có mặt và hết duyên thì tan biến.

 Điểm sáng của đạo Phật là xoa dịu nỗi đau nơi con người, giữa cá nhân với tập thể, giữa đoàn thể với đoàn thể , giữa xã hội với xã hội, giữa sắc tộc với quốc gia để tất cả cùng tìm thấy hòa bình, hữu nghị, hợp tác. Tiếng nói của đạo Phật đã trở thành tiếng nói của thế giới nên đạo Phật là tôn giáo văn hóa của thế giới. Các khoa học gia và nhà nghiên cứu đã nhìn thấy được tính minh triết của đạo Phật. Còn chúng ta có phước được làm đệ tử Phật, có duyên được gặp Phật. Đức Phật giác ngộ dưới cội bồ đề rồi tuyên bố Ngài thành Phật, dịch ra là giác ngộ chân lý nhân sinh vũ trụ. Đấng giáo chủ của chúng ta là một bậc Giác ngộ chứ không phải là đấng thần linh. Ngài đi tìm đạo, sau đó tu tập thiền định 49 ngày đêm rồi khi ánh sáng giác ngộ bùng lên, bước ra khỏi đoạn trường vô minh tăm tối, giải thoát khỏi mọi tập khí phiền não. Ngài là Đấng Giác ngộ, giải thoát, là bậc Thầy dẫn đường, bậc Vô thượng Y vương điều trị bệnh phiền não, tham-sân-si cho chúng sanh, nên suốt cuộc đời của đức Phật chỉ nói đến khổ và phương pháp diệt khổ. Ngài đi du hóa suốt 49 năm, truyền thông điệp của đạo giác ngộ và khai sinh ra đạo Phật nên đạo Phật là đạo giác ngộ. Chúng ta quy y Phật là trở về với sự giác ngộ, quy y Pháp là ngọn đuốc soi đường, quy y Tăng là trở về với bổn tâm thanh tịnh và cuộc sống hòa hợp. Đó gọi là quy y Tam bảo, là trở về với ba ngôi báu mà ba ngôi báu này quý hơn tiền bạc, của cải, tài sản trên thế gian. Giáo pháp của Đức Phật đã nuôi dưỡng thân huệ mạng của chúng ta, làm cho chân trí nảy nở và càng lúc càng tỏ rạng. Nhờ đó chúng ta càng thấm dần đạo lý từ bi cứu khổ, vô ngã vị tha và tìm đến ánh sáng giác ngộ. Đạo Phật khuyên con người sống từ bi bác ái, khuyến khích con người tu thập thiện, thọ bát quan trai, giữ giới, thiền định, đem lại nhiều lợi ích cho cuộc đời. Các thiện hữu tri thức hoặc vị minh sư tu đúng đường, đúng hướng, gặp được chánh pháp nên không bao giờ có hệ lụy; còn nếu gặp tà sư hoặc vướng vào ngoại đạo tà giáo thì sẽ sai lầm. Riêng người phật tử cần giữ năm giới cấm, không nói không làm những việc không tốt cho bản thân và xã hội thì mới tránh được quả xấu về sau.

“Ai ơi! hãy ở cho lành

Kiếp này chẳng hưởng để dành kiếp sau.”

Đây là lời nhắc nhở tràn trề đạo lý của tổ tiên ngàn xưa, khuyên chúng ta hãy ăn ở nhân hậu. Ông bà, cha mẹ sống đạo đức gương mẫu, nhân cách hiền lương phúc hậu cho dù hiện đời chưa được hưởng thì cũng tích lũy được công đức lành để đời về sau sẽ được nhận hoặc truyền lại cho con cháu chứ không bao giờ mất. Chúng ta biết cách tu thì hướng về đạo lý giác ngộ giải thoát, thấy được chân lý của vũ trụ nhân sinh không còn mờ tối si mê, không nhiễm ngũ dục lục trần và sống cuộc đời tự tại, an nhiên.

 Đức Phật Thích Ca Mâu Ni từng dạy rằng: “Nhất thiết chúng sanh, giai hữu Phật tánh.” Nghĩa là tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, mà Phật tánh là mầm mống giác ngộ nhưng do si mê mà quên mất, nếu có giác ngộ thì mới dứt bỏ khổ đau cuộc đời. Đạo Phật dạy cho chúng ta biết cách tiêu trừ tham sân si phiền não, vĩnh viễn ra khỏi biển khổ trầm luân sinh tử để được an vui giải thoát mãi mãi. Đạo Phật hướng dẫn những phương pháp tu tập như: niệm Phật, theo dõi hơi thở, tu tập theo lộ trình giới định tuệ. Tính minh triết của đạo Phật chinh phục thế giới, đó là đạo lý nhân quả, nghiệp báo luân hồi, vô thường, duyên sinh, vô ngã, tánh không, bất nhị, như huyễn, như mộng. Đạo Phật là khoa học tâm linh với những pháp Phật nhiệm mầu, diệt tận gốc khổ đau cho chúng sanh, hướng về con người chân thật bất sanh bất diệt, đó là Phật tánh, chơn tâm, bản lai diện mục. Kinh điển giáo lý nhà Phật nuôi dưỡng thân huệ mạng chúng ta, nuôi dưỡng trí tuệ ngày càng nảy nở thì con người càng bớt khổ, bớt mê lầm trở về với con người chân thật chưa từng sanh diệt. Đó là Phật tánh sẵn có nơi mỗi chúng sanh.

 Nhà Thiền chủ trương: “ Phản quan tự kỷ bổn phận sự, bất tùng tha đắc.” chính là để soi sáng hay xem xét lại chính mình. Người tu Phật muốn đi tới chỗ an định, trí huệ sáng suốt thì phải quán chiếu nơi chính mình. Có trí tuệ mới giải thoát được khổ đau, thấy được chân lý rồi mới dừng bước phiêu lưu.

 

 

Lục Tổ Huệ Năng nói:

 “Bản lai vô nhứt vật,

 Hà xứ nhạ trần ai.”

 Xưa nay không một vật,

 Chỗ nào dính bụi nhơ.

Nếu tâm là vật có hình có tướng thì mới dính bụi và bị mờ tối, nhưng tâm chân thật thì không có hình tướng nên không hề bị nhơ nhiễm. Giống như hư không vô tướng nên rất tự tại. Chơn tâm Phật tánh nơi mỗi con người chúng ta cũng giống như hư không. Trở về với con người chân thật, không đi cũng không đến, không tới cũng không lui vì bản tâm bản tánh của chúng ta cũng tự tại như hư không. Nếu chúng ta tu theo đạo Phật là chúng ta tìm đến vĩnh cửu. Vì thế, con người cần giữ giới thì mới đạt được thiền định, khi nội tâm thiền định thì dễ thấy được đạo lý, dễ khám phá ra chân lý, chấm dứt được mầm mống khổ đau. Chúng ta đem lời Phật dạy áp dụng vào bản thân thì mới hết khổ và mới thấy được giá trị thực tiễn của Đạo Phật đối với chúnh sanh vạn loại.

Nhân mùa khánh đản năm nay, nêu ra vài điểm sáng nơi Đức Phật và giáo pháp của Ngài để người phật tử chúng ta thêm niềm kính tín ngôi Tam Bảo, làm hành trang tiến tu cho đến ngày viên mãn đạo quả Bồ đề.

 

 Thiền Tự Trúc Lâm Viên Giác

 Mùa Khánh Đản – PL. 2558

 

 

 

 

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12127)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14996)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
23/07/2021(Xem: 11825)
Giữa tương quan sinh diệt và biển đổi của muôn trùng đối lưu sự sống, những giá trị tinh anh của chân lý bất diệt từ sự tỉnh thức tuyệt đối vẫn cứ thế, trơ gan cùng tuế nguyệt và vững chãi trước bao nổi trôi của thế sự. Bản thể tồn tại của chân lý tuyệt đối vẫn thế, sừng sững bất động dẫu cho người đời có tiếp nhận một cách nồng nhiệt, trung thành hay bị rũ bỏ, vùi dập một cách ngu muội và thô thiển bởi các luận điểm sai lệch chối bỏ sự tồn tại của tâm thức con người. Sự vĩnh cửu ấy phát xuất từ trí tuệ vô lậu và tồn tại chính bởi mục đích tối hậu là mang lại hạnh phúc chân thật cho nhân loại, giúp con người vượt thoát xiềng xích trói buộc của khổ đau. Tuỳ từng giai đoạn của nhân loại, có những giai đoạn, những tinh hoa ấy được tiếp cận một cách mộc mạc, dung dị và thuần khiết nhất; có thời kỳ những nét đẹp ấy được nâng lên ở những khía cạnh khác nhau; nhưng tựu trung cũng chỉ nhằm giải quyết những khó khăn hiện hữu trong đời sống con người và xã hội.
07/05/2021(Xem: 16571)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
09/03/2021(Xem: 6151)
Anton đã nói với tôi rằng một người bạn nổi tiếng của ông một lần nọ đã lưu ý rằng hầu hết những nhà vật lý lượng tử liên hệ đến lãnh vực này thì ở trong phong thái tâm thần phân liệt. Khi họ ở trong phòng thí nghiệm và chơi đùa với mọi thứ, thì họ là những người thực tế. Họ nói về những quang tử (photon) và điện tử đi đây và đi đó. Tuy nhiên, lúc chuyển sang việc thảo luận triết lý, và hỏi họ về nền tảng của cơ học lượng tử, thì hầu hết sẽ nói rằng không có gì thật sự tồn tại mà không có cơ cấu nhận – định nó.
29/11/2020(Xem: 12531)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7791)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19994)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
23/03/2020(Xem: 10304)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11838)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567