Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Ý thức là gì?

15/01/201204:10(Xem: 5174)
Ý thức là gì?
Ý thức là gì?
Chánh Tấn Tuệ


LTS: Người ta cứ nghĩ rằng, vớisự phát triển của khoa học thì mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới này đềuđược giải thích một cách thỏa đáng. Nhưng thực tế, khoa học càng phát triển thìcàng nảy sinh thêm nhiều vấn đề chưa giải thích được, thách thức trí thông minhvà sự tìm tòi của các nhà khoa học. Để tháo gỡ những khó khăn, những nan giảitrong các lĩnh vực khoa học, nhiều nhà khoa học đã tìm đến với giáo lý đạoPhật, tìm đến với kho tàng triết học đồ sộ của Phật giáo. Liệu triết học Phậtgiáo, cụ thể ở đây là Duy thức học, có thể giúp họ đưa ra những kết luận rõràng về vấn đề trí thông minh nhân tạo, về những câu hỏi đến từ Cơ học lượngtử, từ Tâm lý học, Xã hội học…? Để giúp mọi người hiểu thêm về vấn đề này,xin giới thiệu đến bạn đọc loạt bài nghiên cứu chuyên sâu vềDuy thức học, vấn đề Ý thức - một vấn đề được nhiều nhà Phật học và nhiều nhànghiên cứu tìm hiểu từ lâu, song vẫn luôn có những phát hiện mới mẻ.

Vịtrí và vai trò của ý thức

Theo Phân tâm học, tâm của con người chia làm hailà ý thức và vô thức. Duy thức học thì phân làm tám và ý thức là một trong támphần đó. Như vậy, nhìn theo quan điểm nào thì ý thức cũng chỉ là một phần củatâm. Tuy vậy, ý thức rất năng động và có phạm vi hoạt động rất lớn.

Ý thức có thể hướng ra ngoài để tìm hiểu về thếgiới, có thể hướng vào trong để tìm hiểu nội tâm, khám phá vô thức. Ý thức cóthể duyên được cả ba thời, dung thông cả ba thời quá khứ, hiện tại và vị lai. Ýthức có khả năng liên tưởng, tưởng tượng, trừu tượng hóa, phân tích, tổng hợp,suy luận, kết luận… Ý thức còn có vai trò điều khiển nhiều hoạt động của thânxác. Tóm lại, ý thức là thành phần lanh lợi và đa năng nhất của tâm, nên nóđược xem là công cụ chính yếu của triết học và khoa học.

Con người là con vật biết tư duy. Chính tư duy đãlàm cho chúng ta khác hẳn với các loài khác. Tư duy là một hoạt động của ýthức. Với ý thức, con người đã tạo ra nhiều ngành khoa học, gặt hái được nhiềutri thức. Qua đó con người đã làm thay đổi thế giới, thống trị thế giới. Hiệnnay, chúng ta đã sở hữu được một lượng kiến thức và tri thức khổng lồ về cáchiện tượng thiên nhiên và tâm linh nhưng chúng ta lại có quá ít hiểu biết về ýthức của chính mình. Câu hỏi “ý thức là gì?” trở thành yêu cầu cấp bách.

Giải quyết câu hỏi này sẽ giúp chúng ta hiểu đượcbản chất của nhận thức và tư duy, qua đó giải quyết được nhiều vướng mắc mà cácngành khoa học đang gặp phải. Trả lời được câu hỏi trên cũng giúp chúng ta giảiquyết được vấn đề nhận thức của khoa học. Vì sao? Vì khoa học là những môn họcvề hiện tượng, qua quá trình phát triển hiện đang phải đối mặt với vấn đề bảnthể học. Có thể nêu cụ thể một số trường hợp sau:

1. Trong lãnh vực robot học, có một câu hỏi gâytranh cãi trong các thập kỷ qua là: “Trí thông minh nhân tạo” (artificialIntelligence) có thể trở thành hiện thực không? Nói cách khác, người ta có thểtạo ra các robot thông minh như con người không? Nhiều nhà khoa học cho rằng có.Nhiều nhà khoa học khác cho rằng không. Cho đến nay vấn đề này chưa ngã ngũ vìchưa giải quyết được câu hỏi ý thức là gì?

2. Trong lãnh vực vật lý: Theo quan điểm cổ điển,thế giới là một thực thể tồn tại độc lập với ý thức của con người. Chính vì thế,thái độ đúng đắn của một nhà vật lý là đóng vai trò quan sát khi làm thínghiệm. Trong vật lý hiện đại, cụ thể là trong cơ học lượng tử, khi quan sátcác thành phần cơ bản của vật chất, các hạt cơ bản, các hạt này vừa có tínhliên tục của sóng, vừa có tính không liên tục của hạt. Điều khó hiểu là khi conngười tìm cách đo lường quan sát, nó mới tự cụ thể hóa bằng hạt. Nếu không cóquan sát viên thì không thể nói nó là gì. Chính vì thế, trong cơ học lượng tử,nhà vật lý không chỉ đóng vai trò một quan sát viên mà còn đóng vai trò của mộtngười tham gia khi làm thí nghiệm. Điều này đặt ra một số câu hỏi sau: Phảichăng thế giới được xây dựng bằng ý thức của con người? Phải chăng thế giớiđược hình thành do có sự tham gia của ý thức? Nếu có, ý thức tham gia ở mức độnào trong việc tạo nên thế giới?

Trên chỉ là hai trường hợp cụ thể. Trong thực tế,việc hiểu được ý thức còn giải quyết được nhiều vướng mắc của các ngành khoahọc khác.

Ýthức trong Duy thức học

Theo Duy thức học, tâm chúng ta tạm phân thành tám:Năm thức trước, là nhãn thức, nhĩ thức, tĩ thức, thiệt thức, thân thức, đượcgọi là tiền ngũ thức, cộng với phần ý thức được gọi là sáu thứcngoài, vì chúng ta dễ dàng nhận ra chúng. Hai thức sau là thức mạt-na vàthức thứ tám, gọi là hai thức trong,vì chúng hoạt động một cách âmthầm, sâu kín, khó nhận thấy. Sáu thức ngoài hoạt động có gián đoạn, lúc có,lúc không. Hai thức trong hoạt động không gián đoạn.

Căn,cảnh, thức

Sáu thức ngoài mỗi thức đều có chỗ nương riêng. Chỗnương của thức gọi là căn. Nói cách khác, căn là nơi phát ra thức. Tương ứngvới sáu thức ta có sáu căn là nhãn căn (con mắt), nhĩ căn (lỗ tai), tĩ căn (lỗmũi), thiệt căn (cái lưỡi), thân căn (cơ thể) và ý căn (chính là mạt-na). Sáucăn, mỗi căn có khả năng kết hợp với một loại cảnh riêng, để tạo ra thức. Cụthể như:

Nhãn căn kết hợp với sắc cảnh để tạo ra nhãn thức,là sự nhận biết về sắc tướng (hình ảnh, màu sắc).

Nhĩ căn kết hợp với thanh cảnh để tạo ra nhĩ thức,là sự nhận biết về âm thanh.

Tĩ căn kết hợp với hương cảnh để tạo ra tĩ thức, làsự nhận biết về mùi.

Thiệt căn kết hợp với vị cảnh để tạo ra thiệt thức,là sự nhận biết về vị.

Thân căn kết hợp với xúc cảnh để tạo ra thân thức,là sự nhận biết về xúc chạm.

Ý căn kết hợp với pháp cảnh để tạo ra ý thức, là sựnhận biết về pháp.

Đến đây, để dễ nhận ra tính thực tế và hợp lý củacách phân chia trên, chúng ta hãy làm một sự đối chiếu giữa Duy thức học và Tâmlý học mà cụ thể là Phân tâm học phương Tây.

Theo Phân tâm học, tâm linh chúng ta được phânthành hai là ý thức và vô thức.

Vô thứclà phần tâm linh hoạt động ở bên ngoài ý thức. Ý thức của chúng ta chỉbiết được chút ít về vô thức. Có nhiều vùng của vô thức, ý thức hoàn toàn khôngbiết. Vô thức chính là thức mạt-na và thức thứ tám trong Duy thức học.

- Vì chưa thể phân tích vô thức thành hai phần nhưDuy thức học, nên Phân tâm học không thể lý giải tính cá nhân, còn gọi là sựchấp ngã, có mặt nơi các chủ thể nhận thức. Chấp ngã, là cho rằng ta là chủ thểthân tâm của chính mình.

- Vì ý thức lấy mat-na làm căn, phần này thuộc vềvô thức, nên ý thức luôn chịu sự tác động của vô thức. Đây là điều đã được Phântâm học khám phá, nhưng Phân tâm học chưa thể chỉ ra tác động ấy trong từng ýniệm như Duy thức học.

Sáu thức ngoàiđược Phân tâm học gom về ý thức. Sở dĩ có hiện tượng này, vì theo truyềnthống, các nhà tâm lý phương Tây vẫn cho rằng các giác quan như mắt, tai… làthành phần của bộ máy sinh lý. Chỉ có ý thức là thành phần của bộ máy tâm thần(thành phần tâm lý). Điều này dẫn đến các hệ quả sau:

Việc xem mắt là chiếc máy chụp ảnh, tai là máy ghiâm… khiến Tâm lý học không thể giải thích tại sao khi một tác động bên ngoài(là một hiện tượng vật lý, thuần mang tính vật chất) kích thích lên các giácquan (cũng là thành phần mang tính vật chất) lại tạo ra các cảm giác, là mộthiện tượng tâm lý. Tâm lý gia Bourdon nói: “Sự xuất hiện cảm giác sau khi có sựkích thích không thể giải thích được”. Nếu quy các cảm giác về cho ý thức,chúng ta vẫn gặp lại những khó khăn trên, nên Clarapèle viết: “Vấn đề triết họcliên hệ đến nguồn gốc của ý thức là vấn đề khó khăn nhất”. Cụ thể hơn, dù máychụp hình có ghi lại được các hình ảnh thì chúng ta cũng không thể nói rằng máychụp ảnh biết được các hình ảnh mà nó đã chụp được.

Với Duy thức học, mắt, tai… là các căn. Căn có haiphần, là “phù trần căn” và “thắng nghĩa căn”. “Phù trần căn” là năm giác quanmắt, tai… mà ta có thể nhận biết. “Thắng nghĩa căn” là phần tịnh sắc vi tế. Nólà thể của phù trần căn, và là chỗ nương chính của 5 thức nhãn thức, nhĩ thức… BátThức Qui Cũnói: “Ngũ thức đồng y tịnh sắc căn”. Căn, là chỗ thức y tựa,nhưng cần hiểu nó như một duyên giúp 5 thức sinh khởi hơn là thứ tạo ra 5 thức.Gốc, đều bắt nguồn từ thức thứ tám.

Theo tinh thần Duy thức, các căn đều là sự biếnhiện của thức, không lìa thức mà có, nên ở nơi căn đã hàm chứa đủ hai thànhphần sinh lý và tâm lý. Vì vậy, việc xuất hiện các cảm giác (các thức ngoài)khi căn tiếp xúc với trần cảnh là điều tự nhiên.

Việc quy 6 thức ngoài vào ý thức đã đồng hóa sựnhận biết của 5 thức trước với việc nhận biết của ý thức. Điều này không phùhợp với thực tế. Trên thực tế, ý thức không thể nhận biết trực tiếp về trầncảnh. Ta có thể dễ dàng kiểm chứng: Nếu mắt bị mù, tai bị điếc… thì chúng takhông thể nhận thức về hình ảnh, âm thanh… dù các cảnh ấy đang hiện diện và ýthức vẫn còn đó. Ý thức chỉ biết các trần cảnh thông qua 5 thức ngoài và xem đólà những biểu hiện của pháp. Nói cách khác, thứ mà ý thức nhận biết là pháp,không đồng với đối tượng nhận biết của 5 thức ngoài.

Vậy “Pháp” là gì? Tại sao đối tượng nhận biết của ýthức lại là pháp? Tâm của ta vận hành thế nào để tạo ra một ý niệm về pháptrong ý thức?

Muốn hiểu được các điều trên, trước hết cần phânbiệt hai loại ý thức: Ý thức hiện lượng và ý thức phân biệt.

Ýthức hiện lượng và ý thức phân biệt

Ý thức hiện lượng: Còn gọi là ý thức vô phân biệt, là loại ý thứcvừa sinh ra đã có(1) Lúc còn bé, ngườita thường sống với loại ý thức này. Với ý thức vô phân biệt, chúng ta cũng biếtvề trần cảnh thông qua 5 giác quan, nhưng không khởi lên các ý niệm phân biệtnhư cái này, cái kia, trong, ngoài…

Ý thức phân biệt: Loại ý thức này chỉ xuất hiện và phát triển theo quá trình lớn lên củacon người. Đây là loại ý thức tập thành. Nghĩa là do huân tập mà có. Ý thứcphân biệt có được từ kinh nghiệm sống của cá nhân và từ sự giáo dục của giađình và xã hội.

Thí dụ 1: Một đứa bé bò chơi quanh phòng, chụp đượcgì liền cho vào miệng. Nếu nuốt được nó sẽ nuốt, không nuốt được nó sẽ nhả ra.Nếu sự việc này diễn ra nhiều lần (tập) đứa bé sẽ dần nhận ra thứ gì ăn được,thứ gì không ăn được.

Thí dụ 2: Một đứa bé, nếu được hướng dẫn cái này làghế, cái này là bàn… và sự hướng dẫn diễn ra nhiều lần (tập) thì về sau đứa bésẽ tự mình gọi tên khi nó gặp các vật đó.

Hai thí dụ trên cho thấy việc huân tập từ kinhnghiệm sống và từ sự giáo dục đã làm hình thành các ý niệm phân biệt. Khi ýthức lấy các ý niệm phân biệt này làm cơ sở cho sự nhận biết về thế giới thìgọi là ý thức phân biệt.

Nơi người trưởng thành, ý thức phân biệtchiếm ưu thế. Ý thức hiện lượngvẫn còn đó nhưng khó nhận ra. Khi căntiếp xúc với trần cảnh, ở sát na đầu tiên, ý thức vẫn còn trong trạng thái hiệnlượng. Qua sát na thứ hai, ý thức phân biệt mới xuất hiện.

Những ý niệm phân biệt được tạo ra theo nhiều cáchkhác nhau. Ở con người, phương tiện chính để tạo ra các ý niệm phân biệt làngôn từ. Ngôn từ đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các ý niệm phân biệtcho con người.

Đôiđiều cần biết về ngôn từ

Trước hết, chúng ta cần lưu ý, khi mới sinh rakhông ai biết gì về ngôn ngữ. Nếu một cá nhân không được hướng dẫn, dạy dỗ,không có điều kiện tiếp xúc thường xuyên với ngôn ngữ thì cá nhân ấy khi lớnlên vẫn không biết sử dụng ngôn ngữ. Điều đó cho thấy, ngôn ngữ không phải làmột hiện tượng tự nhiên mà là một hiện tượng tập thành. Ngôn ngữ chỉ được hìnhthành sau quá trình huân tập.

Ngôn ngữ với tính cách uyển chuyển của nó đã chophép tạo ra vô vàn ý niệm phân biệt. Như cũng là màu xanh mà có xanh nhạt, xanhđậm… càng có nhiều ý niệm phân biệt thì ý thức phân biệt càng phát triển, kéotheo sự phát triển của tư duy. Vì thế, chính ngôn từ và sự giáo dục đã làm chocon người khác hẳn các sinh vật khác.

Thông thường, một đứa bé bắt đầu tiếp cận với ngônngữ bằng cách tập gọi tên các sự vật quen thuộc. Việc gọi được tên các sự vậtgóp phần tạo ra sự nhận thức tách biệt rạch ròi giữa các sự vật. Song song vớiquá trình tách biệt các sự vật với nhau, là tiến trình gắn thuộc tính cho từngsự vật. Điều này dẫn đến một cách nhận thức mới. Đó là cách nhận thức về các sựvật trong thế giới thông qua ngôn từ. Đây là môi trường hoạt động chính của ýthức phân biệt.

Nhìn trên chiều sâu của tâm, ngôn từ đã hình thànhtheo phương thức sau: Khi một đứa bé được chỉ dạy cái này là bàn, cái này làghế… thì hình ảnh và tên gọi của các vật sẽ được ghi nhận và lưu trữ trong tâm.Nếu việc chỉ dạy này diễn ra nhiều lần, về sau khi bắt gặp các vật đó, đứa bésẽ gọi được tên các vật đó.

Sau khi ghi nhận, ngôn từ và hình ảnh của sự vậtđều được lưu trữ trong tâm. Nói chính xác là được lưu trữ trong thức thứ tám.Vì sao? Vì 5 thức ngoài hoạt động có gián đoạn và chỉ duyên với các cảnh hiệntại, nên ngôn từ và hình ảnh không thể lưu trữ ở đó. Chúng cũng không thể đượclưu trữ nơi ý thức, vì ý thức hoạt động có gián đoạn. Lại nữa, nếu được lưu trữở ý thức thì chúng ta phải thường thấy chúng. Trên thực tế, ngôn từ về một sựvật nào đó chỉ xuất hiện lúc thích hợp. Lúc bình thường nó không xuất hiện nơiý thức. Do có khả năng lưu trữ đó mà thức thứ tám còn có tên là “tạng thức”, làkho chứa các chủng tử thức.

Trong thời điểm hiện tại, khi mắt bắt gặp một sựvật mà ta có thể gọi tên chúng, điều đó cũng có nghĩa là tên gọi các sự vật đãđược lưu trữ trong tạng thức. Nói theo Phân tâm học, là đã được lưu trữtrong vô thức. Nếu trước đây ta chưa từng biết tên các sự vật đó, thì ở hiệntại khi bắt gặp các sự vật đó, ta không thể biết tên gọi của chúng.

(Còn tiếp)

(1) Đâychỉ nói về hiện đời.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/02/2023(Xem: 8861)
Đã có rất nhiều tài liệu đề cập về Thiền bao gồm Thiền Định, Thiền Chỉ, Thiền Quán, Thiền Tọa, Thiền Hành, Thiền Phàm Phu, Thiền Ngoại Đạo, Thiền Tiểu Thừa, Thiền Trung Thừa, Thiền Đại Thừa, Thiền Tối Thượng Thừa...Tất cả đều là những sắc thái, tướng trạng, hiện tượng và tác động từ tâm thức chúng ta trong ý hướng tu tập trên đường giải thoát, giác ngộ Phật đạo. Sự giác ngộ giải thoát nơi Phật Đạo, tuy nhiên, lại quá phong phú, đa diện với sắc thái tâm thức rất sâu xa vi tế nên dù Phật tánh
31/01/2023(Xem: 10154)
Kinh Châu Báu, thuộc kinh điển Nam Truyền, Tiểu Bộ Kinh, là một bài kinh Hộ Trì hay Cầu An, do Đức Phật Thích Ca nói ra khi Ngài được thỉnh đến thành Vesali, dân chúng đang chịu ba thứ nạn, nạn dịch bệch, nạn đói và nạn Phi Nhân. Dân chúng ở đây cầu mong nhờ ân đức cao trọng của Đức Phật, nhờ Phật Lực mà các hoạn nạn được tiêu trừ.
07/01/2023(Xem: 8292)
Phương pháp phát triển cá nhân mà nhà sư Sangharakshita nói đến trong bài này là phép thiền định của Phật giáo, một phép luyện tập nhằm biến cải một con người bình dị trở thành một con người đạo đức, sáng suốt và cao quý hơn, và ở một cấp bậc sâu xa hơn nữa còn có thể giúp con người đạo đức, sáng suốt và cao quý ấy thoát ra khỏi thế giới hiện tượng luôn trong tình trạng chuyển động và khổ đau này.
23/12/2022(Xem: 22957)
Các video sau được sưu tập và biên tập sao cho mỗi video đều có mục lục chi tiết (ngoại trừ các bài giảng lẻ), kèm theo thời điểm lúc giảng các mục để người xem có thể dễ dàng theo dõi. Ngoài ra nếu vô tình nghe một đoạn bất kỳ cũng có thể biết được Sư bà đang giảng tới mục nào vì tên mục đó có ghi phía dưới màn hình.
02/11/2022(Xem: 23290)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 20099)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 16189)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 10283)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 11845)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 10577)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]