Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Thảo Luận Về Khoa Học Thần Kinh

21/01/201306:39(Xem: 5111)
Thảo Luận Về Khoa Học Thần Kinh

Thảo Luận Về Khoa Học Thần Kinh 
Hội đàm Tâm thức và Đời sống ngày thứ ba
Phúc Cường trích dịch

Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội.

Drepung Lachi, Mundgod, Karnataka, Ấn Độ, ngày 19 tháng một năm 2013 - Trong khi các diễn giả đến từ Viện Tâm thức và Đời sống đang gặp gỡ với Đức Đạt Lai Lạt Ma trong ngôi bảo điện Lachi Drepung cùng với khoảng 900 chư tăng ni, học sinh trung học và khách quốc tế, thì khoảng 5000 chư tăng và thính chúng theo dõi ở phía dưới tại hội trường Drepung Loseling. Các bài thuyết trình chủ yếu bằng tiếng Anh và được dịch trực tiếp sang tiếng Tây Tạng cho những người nghe trên radio FM. Có rất nhiều màn hình chiếu cho những người không thể tham dự trực tiếp. Trên website trực tuyến một lượng thính chúng theo dõi ổn định khoảng hơn 1100 người.

Chủ đề tổng thể ngày thứ ba là Khoa học Thần kinh và buổi sáng thảo luận về Thay đổi Bộ não. Sau khi Đức Đạt Lai Lạt Ma hiện diện, ban phước cho các Lạtma, các diễn giả và an tọa, Tiến sĩ Tâm lý và Tâm thần học Richie Davidson, người đã tham gia vào các hội đàm Tâm thức & Đời sống trong hơn hai mươi năm qua, đã bắt đầu bài thuyết trình:

"Có hai sự điều chỉnh về cảm xúc và sự chú tâm liên quan tới thực hành chính niệm. Tôi sẽ tập trung bàn về các mạch thần kinh có liên quan và ảnh hưởng của việc rèn luyện tinh thần ".

2013-01-19-Mundgod-N06

Đức Đạt Lai Lạt Ma và Richie Davidson trong ngày thứ ba Hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tại Tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, vào ngày 19 Tháng Một năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

Ông trích dẫn quan điểm sâu sắc của William James về sự chú tâm. James giả định rằng khi chúng ta nhìn thấy một con hổ, thông tin sẽ đi lên vỏ não, đi xuống nội tạng, nhịp tim tăng nhanh, và nỗi sợ hãi sẽ phát sinh tiếp sau đó khi tín hiệu quay trở về não. Bộ não nhận ra rằng cơ thể bị kích động. Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt câu hỏi về một loạt các sự kiện này bởi ngài được biết rằng cùng với nỗi sợ hãi máu sẽ dồn xuống chân làm cho chúng ta bỏ chạy và cùng với sự sân giận máu sẽ dồn vào tay làm cho chúng ta kình chống lại. Tiến sĩ Richie Davidson giải thích rằng các thử nghiệm được thực hiện sau khi đã loại bỏ yếu tố bản năng, điều đó cho thấy rằng James đã đúng một phần. Sau ông, James Papez là người đầu tiên nhận biết các mạch trong não có liên quan đến cảm xúc.

Quan điểm cổ điển cho rằng chức năng cảm xúc được xử lý bên ngoài vỏ não. Các nghiên cứu về những người lính bị thương trong Chiến tranh Thế giới Thứ hai cho thấy những ai bị hư thùy trán thì cảm xúc sẽ suy giảm. Điều này chứng tỏ rằng vỏ não, đặc biệt là vỏ não phía trước đóng một vai trò quan trọng đối với cảm xúc. Theo quan điểm hiện đại ngày nay thì khả năng điều chỉnh cảm xúc nằm trong vỏ não phía trước.

Tiến sĩ Richie nhắc về một thử nghiệm cho trẻ em từ 5 đến 6 tuổi ăn kẹo với điều kiện là chúng ăn ngay lập tức, nhưng nếu yêu cầu chúng có thể chờ năm phút thì sẽ được cho ba chiếc kẹo. Những trẻ có khả năng kiềm chế sẽ có xu hướng thành công khi trưởng thành.

"Sự nhận thức quan trọng này gợi ý cho chúng ta rằng nếu có thể dạy cho trẻ em thực hành kỷ luật khi còn nhỏ, thì sẽ đem lại lợi ích cho bản thân các em khi trưởng thành và cho xã hội."

Đức Đạt lai Lạt ma đặt câu hỏi rằng vậy thử nghiệm có thành công nếu, thay vì mang một phần thưởng, thì các em được cảnh báo rằng sẽ bị trừng phạt nếu không chờ đợi.

Tiến sĩ Richie cho rằng hệ thần kinh không mang tính chất tốt hay xấu, nó trung tính, nhưng khi tiếp xúc với những ảnh hưởng tích cực thì dẫn đến những thay đổi tích cực. Đức Đạt Lai Lạt Ma đặt vấn đề mặc dù vậy nhưng hệ thần kinh có thể được giải thích trong phạm vi ảnh hưởng tiêu cực, nó có thể diễn ra tương tự.

“Có những tế bào thần kinh chỉ kích động trong các tình huống tích cực hay thậm chí với những con người tích cực, trong khi có những tế bào lại bị kích động trong các tình huống tiêu cực."

Ba loại chú tâm đã được đề cập tới: cảnh báo, định hướng và kiểm soát, chúng đã được nghiên cứu với một số trẻ em đang thực hành thiền định vipassana trong khoảng thời gian 3 tháng. Kết quả ghi nhận có những tiến bộ dẫn tới tâm thức tĩnh tại và mức độ chú tâm cao hơn.

Tiến sĩTania Singer, chuyên gia lĩnh vực Tâm lý và Thần kinh học, đã thuật lại công việc quản lý một chương trình rèn luyện nuôi dưỡng lòng từ bi. Cô nói rằng họ muốn xác định rõ từ bi là gì thông qua những thử nghiệm linh hoạt bởi các tiến trình khác nhau có kinh mạch tương ứng khác nhau trong bộ não.

"Nếu ngài đặt câu hỏi, làm sao để tôi biết được bạn cảm thấy như thế nào? Có nhiều con đường khác nhau: con đường cảm xúc dựa vào sự cảm thông và lòng từ bi, con đường lý trí thì thông qua tri ​​thức dựa trên sự suy luận."

Tình cảm bao gồm lòng nhân ái, sự biết ơn, sự quan tâm và nồng nhiệt, trong khi những phản ứng thuộc về lý trí, mà bà lập luận phù hợp hơn với quan kiến điểm Phật, bao gồm trí nhớ và sự hiểu biết, hay sự nhận thức rõ về những gì mình đang làm. Cô cũng đề cập đến việc xem xét kỹ cơ sở gen di truyền của các chủ thể và đặc điểm môi trường bên ngoài. Các bộ phận khác nhau của não có thể được xác định một cách rõ ràng thông qua những phản ứng khác nhau. Cô lập luận:

"Chúng ta có rất nhiều bằng chứng cho thấy việc quan sát các cảm xúc của người khác sẽ kích thích các vùng cảm xúc tương ứng trong chúng ta. Chúng tôi đã thử nghiệm Mathieu Ricard qua một máy nội soi và yêu cầu ông thể hiện các trạng thái tinh thần khác nhau, như các trạng thái của tâm từ bi, lòng từ không phân biệt, tâm từ, tâm bi. Tôi có thể nhìn thấy các dấu hiệu từ sự nội soi não khi ông đang nuôi dưỡng sự đồng cảm với những khổ đau của người khác, và chúng tôi đã nhận một tín hiệu khác khi ông thể hiện lòng bi mẫn."

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét:

"Nói chung, nếu bạn nhìn vào lòng bi mẫn, tình yêu thương, sẽ có một khát khao hay mong muốn các đức tính này mang lại hiệu quả nhiều hơn, vì vậy các đức tính đó cần phải được soi đường bởi trí tuệ, sự hiểu biết và các động cơ tích cực".

Vào khóa hội đàm buổi chiều, Tiến sĩ Richie Davidson đặt câu hỏi về trí thông minh lên đức Đạt Lai Lạt ma.

2013-01-19-Mundgod-N04

Đức Đạt Lai Lạt Ma chia sẻ với Tania Singer trong bài thuyết trình của bà tại Hội đàm Tâm thức và Đời sống lần thứ 26 tại tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, ngày 19 tháng một năm 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

"Theo nhận thức của khoa học thần kinh hiện tại, quan điểm chính thống về trí thông minh là phải được đo bằng một bài kiểm tra IQ, trong đó bao gồm 6 bộ kiểm tra bằng lời nói và 6 bộ phi ngôn ngữ. Quan điểm của ngài về trí thông minh, có khả năng xử trí được trong các tình huống khác nhau, mang một ý nghĩa phong phú hơn nhiều. Về mặt di truyền, khu vực phía trước não có ảnh hưởng lớn đến sự tương quan trung tính của trí thông minh."

Đức Đạt Lai Lạt Ma đã đặt câu hỏi quan điểm về trí thông minh qua rèn luyện. Tiến sĩ Richie trả lời có thể đào tạo một người trong phạm vi bộ nhớ, ghi nhớ những con số và trong phạm vi tương tự như vậy. Ông nói rằng vấn đề này liên quan tới trí nhớ hơn là trí thông minh, nhưng Giáo sư Christof chỉ ra rằng một trí nhớ nhanh nhạy cũng là một chỉ số được chấp nhận của trí thông minh. Tania cũng thêm rằng có những thuật ngữ khác nhau được sử dụng: trí thông minh liên quan đến khả năng ghi nhớ và trí thông minh liên quan đến khả năng phát sinh các ý tưởng và áp dụng chúng. Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận xét rằng có những người hiểu nhanh, nhưng lại không giỏi tranh biện, những người khác có khả năng hiểu sâu về sự vật, có những người có trí thông minh mau lẹ hay sắc bén v.v…

Tiến sĩ Richie giải thích rằng nhiều rắc rối của con người đều liên quan đến 'sự dính mắc tình cảm'. Trong các thí nghiệm liên quan đến thiền định về lòng bi mẫn cho kết quả, những người bình thường không có kinh nghiệm thiền định trước đó đã vượt ra khỏi sự dính mắc tốt hơn. Ông kết luận rằng một số người phương Tây đã lo lắng nhiều hơn khi bắt đầu. Mặt khác những thành viên tham gia thực hành chính niệm giảm stress cho thấy không chỉ giảm tress, mà hạch hạnh, phần của bộ não liên quan đến kiểm soát thời gian và cường độ của cảm xúc tiêu cực, cũng nhỏ hơn.

Ông nhớ lại một dịp vào năm 1992 khi ông cùng với đồng nghiệp trong khoa học thần kinh chia sẻ với một nhóm chư tăng. Họ quyết định thuyết minh công việc đo các hoạt động của bộ não khi thực hành tâm từ bi như thế nào. Giáo sư Francisco Varela được đính các dây với các điện cực để làm thí nghiệm. Khi chư tăng quay lại, họ nhìn thấy ông ta và đã phá lên cười. Tiếng cười không phải do thấy Francisco trông rất khôi hài mà cười về ý tưởng có thể đo lường lòng từ bi bằng đính dây điện thí nghiệm lên đầu.

2013-01-19-Mundgod-N05
Geshe Dadul Namgyal đang thuyết trình tại hội đàm Tâm thức và Đời sống XXVI tại tự viện Drepung ở Mundgod, Ấn Độ, trên January19, 2013. Photo / Tenzin Choejor / OHHDL

Tiến sĩ Tania Singer đã thuyết trình về việc chúng ta sử dụng các quá trình nhận thức như thế nào khi nói đến tâm từ bi và hành vi. Tất cả các quá trình nhận thức có một sự tương ứng trong não liên quan đến không chỉ các tế bào thần kinh, mà cả các gen sản xuất ra các tế bào và kinh mạch. Cô đưa ra ba loại hệ thống động lực của con người, động lực thúc đẩy hành vi: một hệ thống tìm kiếm hoặc ngăn ngừa; hệ thống đe dọa và một hệ thống chăm sóc hay tình cảm. Cô đã thảo luận việc giải phóng các hoóc môn như oxytocin đã làm giảm kích hoạt hạch hạnh (amygdala) và nói rằng vấn đề là vậy việc tập trung vào lòng từ bi có thể có tác dụng tương tự hay không? Phát hiện của cô đến nay cho thấy việc rèn luyện tâm từ bi thực sự mang lại những thay đổi có thể quan sát được trong mạng lưới bộ não và làm tăng hạnh phúc.

Geshe Dadul Namgyal đã kết thúc một ngày với những thuyết trình rất phong phú bằng quan điểm của Phật giáo về thần kinh học và hệ thần kinh. Ngài đã định nghĩa đó là khả năng của bộ não, của các tế bào thần kinh, kinh mạch, v.v… tạo thành các cấu trúc và thậm chỉ các chức năng mới. Ngài đã điểm lại các quan điểm và đưa ra nhận xét rằng hạnh phúc không phải là một thứ cố định như: có hoặc không, mà là một kỹ năng, thứ mà chúng ta có thể học hỏi được. Nhìn hệ thần kinh từ quan điểm Phật giáo, ngài đề cập đến hợp thể thân-tâm và cho rằng chính nghiệp đã kết nối tâm và thân. Ngài đưa ra một trích dẫn trong kinh văn liệt kê 8 tính chất của cơ thể với kết luận đáng kinh ngạc rằng bộ não là bản chất của tâm.

Thay vì tập trung đến bộ não, Geshe Dadul bàn về tâm với bản chất hiểu biết và rực rỡ chiếu sáng phi vật chất. Tất cả các sự kiện ý thức đều là cảm giác hoặc tinh thần.Tất cả các sự kiện tại một thời gian nhất định đều bao gồm tâm và các thức, sự tỉnh thức ở mức căn bản và ở mức thô. Ngài minh họa điều này với sơ đồ nhiều màu sắc sinh động mô tả tâm căn bản, không bị vướng mắc bởi hợp thể năm uẩn biến hành và các duyên phát khởi những xúc tình yêu thương hay thù hận, đức hạnh hay ác hạnh. Ngài đã trình bày rõ tính phức tạp của các tiến trình vận hành trong tâm với phần kết luận được toàn thể thính chúng nhiệt thành tán thán.

Phúc Cường trích dịch
Nguồn: Datlailama.com/news

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
31/10/2022(Xem: 12332)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6552)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8701)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7737)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
01/02/2022(Xem: 31534)
48 Đại Nguyện của Đức Phật A Di Đà (loạt bài giảng của TT Thích Nguyên Tạng trong mùa dịch cúm Covid-19)
01/02/2022(Xem: 17826)
Nằm trong khuôn khổ của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) 2014 tại Davos (Thụy Sĩ) vào tháng 1 vừa qua, chương trình trò chuyện với các nhân vật nổi tiếng không hoạt động trong lĩnh vực tài chính, có quan điểm về một cuộc sống hạnh phúc mà không phụ thuộc quá nhiều vào tiền bạc và quyền lực cũng đã diễn ra.
17/11/2021(Xem: 20143)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16609)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
13/11/2021(Xem: 10524)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11644)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567