Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Phật giáo, Đạo đức và Luân lý (Buddhism and Ethics)

14/12/202207:37(Xem: 2057)
Phật giáo, Đạo đức và Luân lý (Buddhism and Ethics)




phat thuyet phap



Phật giáo, Đạo đức và Luân lý

 (Buddhism and Ethics)

 

Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.

 

Đạo đức và Luân lý cũng cho chúng ta cảm giác chính trực bất cứ khi nào, chúng ta cảm thấy rằng mình đang sống phù hợp với chúng. Thông thường, hệ thống Đạo đức và Luân lý bắt nguồn từ trí tuệ bẩm sinh của chúng ta về những việc giữa đúng và sai. Theo nghĩa này, nó không được tạo nên bởi một hội đồng Đạo đức và Luân lý hay các bậc kỳ lão râu dài tóc bạc trong một tòa nhà vương giả với những hàng cột uy nghiêm.

 

Trí tuệ về Đạo đức và Luân lý phát triển từ rất sớm, khi chúng ta có khả năng khái niệm hóa những ý tưởng phức tạp. Ví dụ, không cần phải dựa vào giới luật tôn giáo, việc trộm cướp được coi là hành vi bất thiện.

 

Thông thường, Đạo đức và Luân lý bao gồm hai nguyên tắc, đó là những gì “nên làm” và những gì “không nên làm”. Các truyền thống tôn giáo thường hướng dẫn rất chính xác về hai nguyên tắc này. Trong nhiều nền văn hóa ngày nay, những hướng dẫn như vậy sẽ được thực hiện theo sự lựa chọn của cá nhân và không được thực thi bởi luật công; ví dụ, hạn chế về chế độ ăn uống và một số hành vi. Không phải tất cả các hệ thống đạo đức đều được xây dựng trên các thỏa thuận phổ quát, và nhiều hệ thống được phát triển bởi các nền văn hóa và tổ chức tôn giáo nhất định vì nhiều lý do có thể rất khác nhau. Những gì được coi là đạo đức bởi một người có thể không áp dụng cho người khác. Trong thời hiện đại khi xã hội liên tục thay đổi, với nhiều người được tiếp cận với giáo dục hơn và cơ hội tương đối bình đẳng để phát huy hết tiềm năng của một con người, chính ý tưởng về đạo đức trở nên linh hoạt hơn. Do đó, mọi người đang sử dụng tư duy phản biện để xác định điều gì là đúng và sai thay vì dựa vào các văn bản cũ.

 

Đây là những gì chúng ta đang chứng kiến, và đây là nguồn của xung đột văn hóa giữa các quan điểm bảo thủ và tiến bộ. Trừ khi một người sở hữu toàn tri, không ai có thẩm quyền tuyệt đối để quyết định mô hình nào trong hai mô hình đó giác ngộ hơn. Nói như vậy nhưng nhìn vào lịch sử, đạo đức học theo quan điểm tiến bộ sẽ chiến thắng theo thời gian. Sau một thời gian, tiến bộ thường được chấp nhận như hiện trạng. Lịch sử của Hoa Kỳ là một ví dụ tuyệt vời. Thực hành nô lệ đã từng được chấp nhận rộng rãi như bình thường và được pháp luật bảo vệ. Tác động của việc lạm dụng tình dục và thể xác, và chấn thương do chế độ nô lệ gây ra, vẫn còn vang vọng khắp xã hội Mỹ cho đến ngày nay. Bên cạnh nhiều yếu tố khác. Nội chiến Hoa Kỳ là biểu hiện của sự xung đột văn hóa giữa quan điểm bảo thủ và tiến bộ. Mặt chính trị giải phóng nô lệ có thể được gọi là tiến bộ theo thuật ngữ hiện đại. Ở đây chúng ta có thể thấy quan điểm tiến bộ đã được chấp nhận theo thời gian như thế nào và quan điểm bảo thủ đã không còn giá trị. Mặc dù các phần của lịch sử Hoa Kỳ có một số khía cạnh rất đen tối, ngày nay quốc gia này đại diện cho quyền con người và các giá trị tiến bộ được nhân loại yêu quý, đồng thời quốc gia này không ngừng nâng cấp và cập nhật các tiêu chuẩn đạo đức của mình bằng trí thông minh, tư duy phản biện, tầm nhìn xa trông rộng và lòng trắc ẩn.

 

Phật giáo nhấn mạnh đạo đức (Sila), là một trong những thực hành chính mà các tín đồ phải vâng giữ. Danh từ Tam vô lậu học là môn học thù thắng gồm có Giới (cơ sở của Đạo đức Phật giáo)-Thiền định-Trí tuệ. Ba môn học này chỉ có trong giáo pháp của Đức Phật. Tam vô lậu học được coi là hành trình dẫn đến giác ngộ. Điều này cho thấy Đạo đức và Luân lý là một phần không thể thiếu của truyền thống. Phật pháp cũng dạy rằng sự phát triển tâm linh không thể diễn ra trừ khi các thực hành các Đạo đức và Luân lý được đưa vào cuộc sống của các hành giả. Chỉ khi đó tu tập cả hai Thiền định và Trí tuệ mới có thể đạt được chứng ngộ.

 

Đạo Phật cũng có nhiều con đường và hệ thống giáo lý gọi là Thừa (yanas, 乘, phương tiện chuyển  tải). Mỗi người trong số họ có các quy tắc đạo đức riêng, nếu nhìn bằng con mắt chưa qua đào tạo thì có thể mâu thuẫn hoặc thậm chí đối lập nhau. Các giới nguyện trong Luật tạng hoặc hệ thống cơ sở tự viện Phật giáo quy định một nguyên tắc ứng xử là một phần của khóa đào tạo đầu tiên, ‘Sila’ (giới luật, bổn phận phải làm (caritta) và những điều nên tránh (varitta). Ví dụ, giới luật khuyên không nên lạm dụng các chất gây nghiện như rượu bia và các chất ma túy. Vì vậy, đệ tử của Phật môn, người xuất gia làm sa môn và tại gia cư sĩ không được lạm dụng các chất gây nghiện như rượu bia và các chất ma túy. Ngoại lệ, trong Phật giáo Kim Cương Thừa, việc rượu, bia đưa vào các nghi lễ là không cấm.

 

Thậm chí Tôn giả Longchen Rabjam Drime Ozer (1308-1364) đã viết một bài thánh ca khen ngợi về rượu. Tại Tây Tạng có nhiều thiền sinh uống rượu trong các nghi lễ và tại phòng thất của  họ. Điều này cũng cho thấy rằng các hướng dẫn đạo đức trong đạo Phật không phải là duy nhất và phụ thuộc vào truyền thống mà chúng có liên quan. Cuối cùng tất cả đạo đức có thể được tổng thành hai nguyên tắc bao gồm: Không gây tổn hại người khác và vì lợi ích cho tha nhân. Đây là phiên bản Phật giáo của giới nguyện một cách ngắn gọn “Những điều nên và không nên làm” (The dos and don'ts). Sự tổng hợp Đạo đức và Luân lý này có một chân lý phổ quát, có thể đóng vai trò là kim chỉ nam tinh thần vượt thời gian cho nhân loại, có thể được đưa vào thực hành tôn giáo cũng như thế tục. Không có những sự linh hoạt này, sẽ có nguy cơ bị sa lầy trong những hệ tư tưởng phức tạp chỉ giới hạn trong một số tín điều hoặc đã lỗi thời.

 

Trong khi những giá trị Đạo đức và Luân lý vẫn được các tu sĩ tuân theo, nhiều giới luật và lời thệ nguyện vì lợi lạc quần sinh của Luật tạng, hầu hết nhân loại trên thế giới chưa áp dụng. Là Phật tử, đặc biệt là Phật tử tại gia, cách thực hành giới luật không phải tầm thường phàm tục nên dựa vào kinh văn giới luật. Đúng nghĩa, một Phật tử tại gia tự nỗ lực vì lợi ích cho bản thân và vì lợi ích cho tha nhân. “Tha nhân” (Others, 他人) ở đây không chỉ bao gồm con người mà tất cả chúng sinh. Và không chỉ đơn giản là không làm tổn hại mà còn phải siêng làm những việc vì lợi ích tha nhân thông qua thiện tâm, sự hào phóng và những hành động cao thượng là giới luật chân chính – giống như tòa nhà Phật pháp kim sắc quang minh đưa người đến cõi Niết bàn.

 

Tác giả  Anam Thubten Rinpoche

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn Buddhistdoor Limited

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/05/2021(Xem: 16356)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12380)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7678)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19785)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11527)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9005)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 10199)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
01/03/2020(Xem: 11709)
Kinh Viên Giác là kinh đại thừa đốn giáo được Phật cho đó là “Con mắt của 12 bộ kinh”. “Con mắt” ở đây theo thiển ý có nghĩa là Viên Giác soi sáng nghĩa lý, là điểm tựa, là ngọn hải đăng cho các bộ kinh để đi đúng “chánh pháp nhãn tạng”, không lạc vào đường tà và tu thành Phật. Khi nghe kinh này, đại chúng kể cả chư Phật và chư Bồ Tát đều phải vào chánh định/tam muội, không bình thường như những pháp hội khác.
04/01/2020(Xem: 7103)
Bài viết nhan đề “Góp Ý Với Sư Cô Thích Nữ Thanh Tâm” của Cư sĩ Thiện Quả Đào Văn Bình trên mạng Thư Viện Hoa Sen hiển nhiên là nhiều thiện ý, đã đưa ra các nhận định mang tính xây dựng. Từ đó, tất nhiên có phản ứng, và những ý kiến trái nghịch được đưa ra. Trong mọi trường hợp, tất cả những dị kiến nên xem như chuyện bình thường.
04/01/2020(Xem: 8146)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567