Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

28/01/201109:41(Xem: 9483)
19-Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợ quả

BƯỚCÐẦU HỌC PHẬT

HòathượngThích Thanh Từ
PhậtLịch 2541-1998

Bồ-tátsợnhân chúng sanh sợ quả

Là conngười ai cũng sợ khổ cầu vui, song người mê chỉ biếtsợ quả khổ cầu quả vui. Ngược lại người tỉnh chỉsợ nhân khổ, tạo nhân vui. Hai bên có cái nhìn khác nhau,bên nào sẽ đạt được như sở nguyện? Dù ngây thơ thếmấy, người ta vẫn biết, không tạo nhân lành mà cầu quảtốt là chuyện không đâu; sợ quả khổ mà cứ tạo nhânác là việc khó tránh. Nhân ác không gây, dù chẳng sợ quảkhổ, nó vẫn không đến; nhân lành cứ tạo, dù chẳng cầuquả vui, nó vẫn bò sang. Cho nên người trí nhìn từ cái nhânmà chọn lựa, chọn nhân lành bỏ nhân ác. Cả đời mãi gâytạo nhân lành, loại trừ nhân ác, người này bảo đảm gặthái những kết quả đẹp đẽ an vui. Ai say sưa tạo nhân ác,chẳng bao giờ nghĩ tới nhân lành, chắc chắn sẽ thu lượmđược muôn vàn đau khổ, dù họ sợ sệt khẩn cầu quảấy đừng đến. Cho nên câu châm ngôn nhà Phật, ít Phậttử nào không thuộc, là "Bồ-tát sợ nhân chúng sanh sợquả".

NGHĨABỒ-TÁTVÀ CHÚNG SANH

Bồ-tát(Bodhisavattu) là người giác ngộ, thấy tận cái manh nha cáiđầu mối của sự khổ đau và an lạc. Muốn hết khổ đượcvui, không gì hơn ngay cái mầm đau khổ chúng ta đừng gieo,cái mầm an vui phải tung vãi. Không gieo nhân khổ thì quảkhổ làm gì có. Cứ tung vãi nhân vui thì quả vui không vờicũng đến. Ðây là hành động của người giác ngộ. Chúngsanh là những kẻ mê, chỉ nhìn trên cái quả mà sợ mà cầu.Luôn luôn sợ khổ cầu vui, mà nhân đau khổ không tránh, nhânan vui không tạo. Một khi quả đau khổ đến thì cầu khẩnvan xin, song làm sao qua khỏi, vì đã hình thành. Cầu mong mơước quả an vui, nhưng nhân không gây thì quả từ đâu màđến. Ðây là hình ảnh trái ngược của kẻ mê người giác.Tuy nhiên, cái mê này ai cũng có thể bỏ, cái giác này ai cũngcó thể làm. Chỉ là nhắm vào nhân là giác, ai không thểlàm được việc đó. Thế nên, Bồ-tát là chuyện tất cảchúng ta có thể làm được và chúng sanh chúng ta cũng bỏđược.

BỒ-TÁTSỢ NHÂN

Bồ-tátlà con người giác ngộ và hay làm giác ngộ người khác. Bởigiác ngộ nên thấy rõ cái gì là nhân đau khổ liền sợ hãitìm mọi cách để diệt trừ. Thấy tham lam và keo kiệt lànhân đau khổ, Bồ-tát tu bố thí để tiêu diệt nên nói bốthí độ san tham. Thấy buông lung ngạo mạn là nhân phá hoạiđức hạnh, Bồ-tát tu trì giới để khử dẹp, nên nói trìgiới độ phá giới. Thấy nóng giận là nhân gây nhiều tộilỗi. Bồ-tát tu nhẫn nhục để dẹp, nên nói, nhẫn nhụcđộ sân hận. Thấy lười biếng bê tha là nhân hư thân mấtcông đức, Bồ-tát tu tinh tấn để đánh đuổi, nên nói tinhtấn độ giải đãi. Thấy tâm tán loạn là nhân điên đảotối tăm, Bồ-tát tu thiền định để thu nhiếp, nên nói thiềnđịnh độ tán loạn. Thấy ngu si là nhân trầm luân sanh tử,Bồ-tát tu trí tuệ để chiếu phá, nên nói trí tuệ độngu si.

Sởdĩ Bồ-tát tu lục độ là để diệt trừ sáu cái nhân xấuxa tội lỗi mù tối hiểm nguy, dẫn con người đi mãi trongtrầm luân đau khổ. Khi sáu cái nhân ấy bị tiêu diệt hoàntoàn là giác ngộ giải thoát. Giai đoạn tu lục độ là đanghành hạnh Bồ-tát, đến khi giác ngộ là Bồ-tát thật sự.Phần này là tu hạnh Bồ-tát nặng về tự giác.

CHÚNGSANH SỢ QUẢ

Chúngsanh là những con người mê muội, một bề sợ khổ mà khôngbiết nguyên nhân. Thấy cái gì khổ đau đến là kinh hoàngkhiếp sợ van xin cầu cứu, mà không biết cái khổ ấy xuấtphát từ nguyên nhân nào. Khi cái khổ qua rồi, thì bình thảnnhư thường không biết gì tu sửa. Những cái quả chúng sanhsợ nhất là:

Sợngười khác giết hại mình, mà tâm giết hại người khôngbỏ. Còn ôm mưu đồ giết hại người thì quả người giếthại mình làm sao tránh khỏi. Sợ người khác lén lấy, cướpgiựt tiền bạc của cải của mình mà tâm tham lam của ngườikhông chừa. Ðã tham của người thì người tham của mìnhlà sự đương nhiên. Sợ người ta xâm phạm tiết hạnh vợcon mình, mà mình vẫn dòm ngó thèm thuồng vợ con người.Ôm lòng phá hoại sự trinh bạch của gia đình người thìngười phá hoại hạnh phúc gia đình mình khó tránh khỏi.Sợ người ta dùng lời lường gạt vu cáo mình, mà mình vẫnthích lường gạt vu cáo người. Ðã có cái nhân lường gạtvu cáo người thì quả người lường gạt vu cáo mình làmsao trốn được. Sợ say sưa như điên như dại bị ngườicười chê, mà rượu không từ không kiêng. Sẵn sàng uốngrượu thì phải chấp nhận say sưa. Ðây là những cái quảmà chúng sanh sợ hãi. Song sợ quả mà không tránh nhân, thậtlà khờ khạo ngây thơ. Ðó là nói lên tính mê muội củacon người, được gọi là chúng sanh.

BỒ-TÁTTẠO NHÂN

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát thấy bổn phận mình phải đem sựgiác ngộ lại cho mọi người. Ðể đạt mục đích ấy, Bồ-tátphải tạo dựng cho mình đầy đủ những điều thiết yếunày: Một là Bồ-tát phải thông suốt Phật pháp (nội minh).Vì mục đích dạy người tu theo đường lối giác ngộ màkhông thông suốt giáo lý Phật thì không thể thực hiện được.Hai là Bồ-tát phải thông hết các môn tâm lý học, xã hộihọc, khoa học. (ngoại minh). Có suốt thông các môn này thìsự giáo hóa không bị chướng ngại. Ba là Bồ-tát phải biếtcác môn y dược (y phương minh). Trị cho người được lànhbệnh, chỉ dạy đạo lý cho họ rất dễ dàng, vì họ cócảm tình sẵn sàng nghe mình dạy. Bốn là Bồ-tát phải họccác nghề nghiệp thật hay thật khéo (công xảo minh). Cầngiúp đỡ mọi người, chúng ta phải có tài giỏi nghề khéo,vừa chỉ dạy dân chúng, vừa gầy được nền kinh tế tốtđẹp cho đồng bào. Nhờ tài nghệ đặc biệt của mình, ngườita mới đến cầu học, là cơ hội tốt để giáo hóa họ.Năm là Bồ-tát phải giỏi ngoại ngữ (thanh minh). Muốn tiếpxúc với nhiều hạng, nhiều giống người, cần phải biếtnhiều thứ tiếng. Biết tiếng họ, chúng ta mới dễ thôngcảm và giáo hóa họ. Tạo dựng cho mình đầy đủ năm điềukiện này, Bồ-tát mới làm tròn sự nghiệp giác tha. Chúngta không thể ôm ấp lý tưởng suông rằng "thệ nguyện giáctha", khi đó nơi mình không có một chút khả năng, một ítphương tiện thì sự giác tha trở thành vô nghĩa. Trước tiênchúng ta phải tạo dựng cho mình đầy đủ điều kiện thiếtyếu (ngũ minh), sau đó mang hành lý lên vai tiến trên đườnggiác tha, chúng ta mới làm tròn nhiệm vụ.

Tạodựng cho mình đủ năm điều kiện trên rồi, Bồ-tát cònphải ứng dụng bốn việc thì sự giáo hóa mới dễ thànhtựu: Một là Bồ-tát phải sẵn sàng giúp đỡ tiền bạccủa cải hoặc sức lực của mình khi người cần. Nhờ sựgiúp đỡ người ta dễ có cảm tình, nhiếp hóa họ mới được(bố thí nhiếp). Hai là Bồ-tát phải nói lời hòa nhã dịudàng dễ mến. dù chúng ta có giúp ai bao nhiêu, mà thốt ranhững lời thô bạo họ đều bực bội chán ghét. Khéo dùnglời hiền hòa nhu nhuyến nhiếp hóa người (ái ngữ nhiếp)là dễ thành công. Ba là Bồ-tát phải xông pha làm những điềugì để đem lợi ích thiết thực cho người. Chúng ta khôngphải chỉ nói suông, mà phải làm thật sự. Ai cần điềugì có thể làm được, chúng ta phải nỗ lực làm giúp, đểđem đến kết quả lợi ích cho họ. Nhờ bàn tay của mìnhgiúp họ thành công một việc, sau đó mình đem chánh phápgiáo hóa họ, họ dễ dàng thu nhận (lợi hành nhiếp). Bốnlà Bồ-tát phải lăn xả vào trong mọi ngành mọi nghề đểcùng làm cùng sống với họ. Dễ thông cảm nhau nhất là bạnđồng nghiệp. Ðồng trong một cảnh ngộ, có bàn luận điềugì thật là dễ cảm thông. Chính chỗ chung nghề nghiệp, chúngta đem chánh pháp giáo hóa họ được sự chấp nhận khôngkhó khăn gì (đồng sự nhiếp). Bốn điều này là phươngtiện không thể thiếu của Bồ-tát trên con đường giác tha.

CHÚNGSANH CẦU QUẢ

Chúngsanh không ưa tạo nhân tốt mà mong cầu quả tốt. Quả tốtlàm gì đến được, bởi không có nhân. Tuy thế mà họ vẫnước mơ trông đợi quả tốt. Như người ta cứ mong cho mìnhđược sống lâu mạnh khỏe, mà không chịu cứu người giúpvật. Sanh mạng của người không được tôn trọng mà muốnmọi người tôn trọng sanh mạng mình là điều không thểđược. Hoặc cầu mong mình được giàu có ai nấy đều ủnghộ mình, mà không chịu làm việc bố thí, giúp đỡ ngườilúc cùng khốn. Lại có người cầu cho gia đình mình hòa vuihạnh phúc vợ con đều trinh bạch, mà không chịu sống hạnhtrinh bạch với mọi người. Cũng có người cầu xin đừngai lừa gạt mình, mà không chịu nói lời chân thật. Quảlà muốn đi bên tây mà hướng mặt về đông. Có người cầunguyện gia đình mình sum họp thuận hòa, mà không dùng lờikhuyên can cho mọi người cùng hòa hợp. Có người cầu mongđừng ai dùng lời hung ác nói với mình, mà mình không chịudùng lời hiền hòa nói với người. Có những người muốnai cũng trình bày lẽ thật với mình, mà mình không trình bàyvới người. Có những người cầu mong đừng ai tham lam vớinhững cái có của mình, mà mình không chịu bỏ lòng tham vớinhững cái có của người. Có những người cầu xin đừngai giận hờn mình, mà mình chưa chịu hỉ xả cho người. Cónhững người cầu cho mình có trí tuệ sáng suốt, mà nhữngcố chấp tà kiến không chịu bỏ. Bao nhiêu thứ cầu mongnày không bao giờ người ta toại nguyện, chỉ vì mong quảmà không chịu tạo nhân. Ðây là sự cầu mong suông của nhữngcon người mê muội.

SỰSAI BIỆT GIỮA BỒ-TÁT VÀ CHÚNG SANH

Nhìntrên cái "SỢ" giữa Bồ-tát và chúng sanh đã quá khác biệtnhau. Bồ-tát biết là nhân đau khổ liền hoảng sợ tìm mọicách để tiêu diệt chúng. Còn một chút mầm đau khổ, Bồ-tátvẫn không an. Bởi vậy Bồ-tát luôn luôn ứng dụng Lục độđể khử dẹp mọi mầm nhân đau khổ. Nhân đau khổ đã diệtsạch, quả đau khổ do đâu đến được, nên Bồ-tát khôngbao giờ quan tâm đến quả. Không sợ quả mà quả cũng khôngđến. Ngược lại, chúng sanh nom nớp sợ quả khổ, mà nhânđau khổ không ngăn ngừa, cho nên càng sợ chúng lại càngđến. Người ta khóc lóc than van khi gặp quả khổ, mà khôngchịu nhìn xem quả khổ ấy do ai gây nên. Kêu trời trách đấthận người, chỉ là việc vô ích, có khi quả khổ lại tăngthêm. Không trời Phật nào cố làm chúng ta khổ, do sự dạikhờ ngu muội của chúng ta tạo thành những nhân đau khổ,nhân đã có thì quả cố nhiên phải đến. Khóc than oán tráchchỉ làm thêm đậm nét khổ đau mà thôi.

Ðếnphần giác tha, Bồ-tát cố tạo cho mình đầy đủ khả năng,nào ngũ minh, nào tứ nhiếp pháp, làm thuyền bè cứu vớtchúng sanh. Bồ-tát không mong ước viển vông, mà phải cụthể thực tế nhìn thẳng vào lẽ thật. Cho nên phải rènluyện mình có thật tài, thật đức, mới nói đến sự giáohóa mọi người. Bồ-tát không có thái độ ngây thơ như nhữngngười nói từ bi, nói thương chúng sanh, mà chỉ có ở đầumôi. Bồ-tát là con người hành động, mang trí tuệ và tàinăng của mình đi vào cuộc đời, sống bên cạnh quần chúng,như pháp "Lợi hành" và "Ðồng sự" của Tứ-nhiếp-pháp ,Bồ-tát không phải những hình ảnh thờ ở chùa ngồi trêntòa sen hay cỡi sư tử, mà là những người có kỹ năng khéoléo, mình mẩy lem luốc, đang loay hoay trong xí nghiệp, tronghãng xưởng chế tạo, tự mình làm và chỉ dạy người làm,đây là "Công xảo minh" trong Ngũ minh. Ngược lại, chúng sanhmột bề mong cầu quả đẹp, mà không tạo những nhân tốt.Quả đẹp làm sao có, khi nhân tốt chúng ta chẳng gieo. Muốngặt quả mà không gieo nhân; nếu được, quả ấy chỉ làquả gian lận, quả cướp giựt, bất chánh. Ví như có ngườithấy hàng xóm trồng cam trái chín oằn cây, mê quá lại háingang, nếu chủ vườn thấy đánh gãy tay, nếu không thấyhái được đem về, cũng là cái quả ăn cắp, cái quả xấuxa nhục nhã. Cầu quả mà không chịu gây nhân, là kẻ mơước hão huyền, xa rời thực tế, là kẻ lười biếng muốnăn mà không chịu làm. Không gây nhân cầu quả, là kẻ mêmuội nên gọi là chúng sanh.

Bồ-tátvà chúng sanh, nào có cách biệt bao nhiêu, chỉ chịu đổicái nhìn. Nhìn thẳng vào nhân để thấy rõ nhân khổ thìtránh, nhân vui thì hành là Bồ-tát. Chỉ một bề sợ quảkhổ, cầu quả vui, mà không cần biết nguyên nhân, là chúngsanh. Bồ-tát, chúng sanh trên con người không khác, chỉ kháccái nhìn nhân và nhìn quả thôi. Như hai người cùng đứngmột địa điểm, một người xây mặt về đông, một ngườixây mặt về tây; nếu nguời xây mặt về tây chịu quay lạinhìn về đông, thì đâu có khác nhau. Như thế thì tất cảchúng sanh đều có khả năng làm Bồ-tát, không phải việcBồ-tát chỉ dành riêng cho Bồ-tát, còn chúng ta không có phần.

Xuyênsuốt bài này, chúng ta thấy rõ Bồ-tát và chúng sanh cáchnhau chừng kẽ tơ sợi tóc. Chúng sanh đổi cái "sợ quả"thành "sợ nhân" là chuyển thành Bồ-tát. Thật là mê giácchỉ khác nhau một cái nhìn. Bồ-tát ở đây rất gần gũithân thiết với chúng sanh. Có khi là ông thầy giảng kinh chomọi người nghe, đâu không phải là Bồ-tát, vì ngài thôngsuốt "Nội minh". Có lúc là ông thầy xem mạch bốc thuốccho mọi người, âu cũng là Bồ-tát, vì ngài thực hành "Yphương minh". Một người thợ giỏi đang hướng dẫn chỉdạy đàn em với nhiệt tình không vụ lợi, biết đâu chừngcũng là Bồ-tát, vì ngài thực hiện "Công xảo minh". Cho đếnngười bạn cùng cuốc rẫy trồng khoai mà nói đạo lý chânthật chúng ta nghe, ai ngờ là Bồ-tát, vì Ngài thực hành "Ðồngsự nhiếp". Bồ-tát là những con người thiết thân với chúngta, chỉ khác với chúng ta ở chỗ thấy rõ nhân ác để tránh,nhân thiện để tạo. Còn chúng ta chỉ một bề sợ quả khổcầu quả vui, mà không chịu thấy tường tận nguyên nhâncủa nó. Gần đây bên ngành y học cũng có câu "ngừa bệnhhơn chữa bệnh", cũng na ná sợ nhân hơn là sợ quả. ÐạoPhật là đạo giác ngộ, thấy nguyên nhân rõ ràng là giác,giác là Bồ-tát. Chúng ta tu theo Phật là đi trên con đườnggiác, xét rõ nguyên nhân của mọi việc xảy ra để ngừatránh là theo hạnh Bồ-tát. Mọi người chúng ta đều có khảnăng thực hiện việc "sợ nhân", thì chúng ta ai cũng làm Bồ-tátđược.






Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/01/2020(Xem: 8261)
Trong Ngũ Đăng Hội Nguyên có thiền truyện thuật lại cuộc hỏi đáp giữa Triệu Châu và Nam Tuyền: " Triệu Châu hỏi Nam Tuyền: 'Thế nào là đạo?' Nam Tuyền đáp : ‘Tâm bình thường là đạo’ (Bình Thường Tâm thị Đạo). _’Lại có thể nhằm tiến đến chăng?’ _ ‘Nghĩ nhằm tiến đến là trái’. _ ‘Khi chẳng nghĩ làm sao biết là đạo?’ _ ‘Đạo chẳng thuộc biết và chẳng biết. Biết là vọng giác, không biết là vô ký. Nếu thật đạt đạo thì chẳng nghi, ví như hư không rỗng rang đâu thể gắng nói phải quấy’. Ngay nơi lời này Triệu Châu ngộ lý, bèn đi thọ giới...." Vậy, thế nào là “Tâm Bình Thường”?
08/12/2019(Xem: 24062)
Kính lễ Phật Pháp Tăng là thể hiện niềm tin sâu xa của Tứ chúng đệ tử đức Phật mỗi ngày đối với Tam bảo. Đệ tử Phật dù tu tập chứng A-la-hán vẫn suốt đời nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng không hề xao lãng. Các vị Bồ tát từ khi phát Bồ đề tâm, tu tập trải qua các địa vị từ Tín, Trú, Hạnh, Hướng, Địa cho đến Đẳng giác không phải chỉ nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng một đời mà đời đời, kiếp kiếp đều nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng. Nhờ sự nương tựa và kính lễ Phật Pháp Tăng như vậy, mà Bồ tát không rơi mất hay quên lãng tâm bồ đề, khiến nhập được vào cảnh giới Tịnh độ không thể nghĩ bàn của chư Phật, nhập vào thể tính bất sinh diệt cùng khắp của Pháp và nhập vào bản thể hòa hợp-thanh tịnh, sự lý dung thông vô ngại của Tăng.
08/12/2019(Xem: 23651)
Phật Giáo và Những Dòng Suy Tư (sách pdf)
22/11/2019(Xem: 23073)
Nam mô ADIĐÀ PHẬT , xin Thầy giải thích thắc mắc của con từ lâu : “ Nam mô Tam Châu Cảm Ứng Di Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát “: 1- Tại sao Tam Châu mà không là Tứ Châu ? 2- Hộ Pháp Vi Đà Tôn Thiên Bồ Tát có phải là Vị Bồ Tát đứng chung với Ngài Tiêu Diện BT ở bàn thờ trước hall mà khi chúng con mới vào chùa QDT dẫn đến và nói : cô chú khi mới vào chùa đến xá chào 2 Vị BT này ( check in ) trước khi ra về cũng đến xá chào ( check out).Xin Thầy nói về tiểu sử của 2 Vị BT ( 2 security officers) mà Phật đã bổ nhiệm xuống cho mỗi chùa .Xin mang ơn Thầy 🙏
08/11/2019(Xem: 13507)
Thanh Từ Thiền Sư, tuyên ngôn như thế, lời vàng đanh thép, lý tưởng cao siêu, muôn đời bất diệt. Phật Giáo Dân Tộc, đồng hành muôn thuở, tuy hai mà một, bền lòng sắc son, nẻo đạo thanh cao, đường đời rộng mở. Ông Dương Ngọc Dũng, mang danh tiến sĩ, học vị giáo sư, nói năng như khỉ, hành vị đáng khinh, giảng đường đại học, kỳ thị tôn giáo, nói xàm nói láo, xúc phạm Phật giáo, bôi nhọ Tăng Ni.
03/09/2019(Xem: 8627)
Hiện tình quốc tế và đất nước đang diễn biến dồn dập hơn bao giờ hết. Khi chính quyền các quốc gia và định chế quốc tế tỏ ra không đủ khả năng để ứng phó trước nguy cơ chiến tranh có thể bộc phát, thì một chủ đề đạo đức tôn giáo cần được thảo luận: Phật giáo có biện minh nào cho chính nghĩa trong cuộc chiến tương lai không?
29/08/2019(Xem: 10705)
Trong thời Đức Bổn Sư Thích Ca còn tại thế, nhất là thời giới luật chưa được chế định, 12 năm đầu tiên sau khi Ngài thành đạo, có nhiều tỷ kheo hay cư sĩ đã liễu ngộ, giải thoát, niết bàn chỉ ngay sau một thời thuyết pháp hay một bài kệ của Tôn Sư. Tại sao họ đặt gánh nặng xuống một cách dễ dàng như vậy? Bởi vì họ đã thấu hiếu tận gốc rễ (liễu ngộ) chân đế, tự tại giải thoát, tịch lặng thường trụ, chẳng động, chẳng khởi, chẳng sanh, chẳng diệt, không đến cũng không đi mà thường sáng soi. Khi họ thấu hiểu được vậy. Kể từ lúc đó, họ tín thọ và sống theo sự hiểu biết chơn chánh này. Họ luôn tuệ tri tất cả các pháp đều huyễn hoặc, vô tự tánh cho nên, họ không chấp thủ một pháp nào và thong dong tự tại trong tất cả các pháp.
22/08/2019(Xem: 10906)
Phát Bồ đề Tâm là một pháp môn tu, nếu không hơn thì bằng chứ không kém một pháp môn nào trong tam tạng, bởi nó nói lên được cứu cánh của việc tu hành. Trong kinh Đại Phương Tiện, Phật dạy A Nan: “Phát Bồ Đề Tâm là pháp môn thù thắng giúp hành giả rút ngắn tiến trình tu tập của mình”. Trong kinh Hoa Nghiêm Phật lại ân cần nhắc nhở: “Kẻ chỉ quên việc phát Bồ Đề Tâm thì việc làm Phật sự là đang làm ma sự” huống hồ là kẻ tâm không phát, nguyện không lập.
07/07/2019(Xem: 5574)
Phật giáo không phải là tôn giáo để các tín đồ đến tham gia hay phát động như một phong trào, mà tự thân con người sau quá trình học hỏi, tư duy, nhận thức cốt lõi lời dạy của đấng Từ phụ, từ đó phát tâm tìm đến, thân cận và quy y Tam Bảo: ‘Hôm nay mong giác ngộ hồi đầu - Tịnh tâm ý quy y Tam Bảo’. Với lòng tịnh tín bất động, con người đầu thành vâng giữ mạng mạch giáo pháp, dốc lòng phụng hành đạo lý mình chọn, con người nhờ vậy được chân lý, chánh pháp che chở, thành tựu ‘Phép Phật nhiệm màu – Để mau ra khỏi luân hồi’.
05/06/2019(Xem: 16353)
Niệm Định Tuệ Hữu Lậu & Niệm Định Tuệ Vô Lậu Phật Đản 2019 – Phật lịch 2563 Tỳ kheo Thích Thắng Giải , Ngôn ngữ là một phương tiện để diễn tả đạo lý, nhưng thể thật của đạo thì vượt ra ngoài ngôn ngữ và tất cả ý niệm. Vì vậy, một khi chúng ta liễu tri được nghĩa chân thật của đạo thì lúc đó sẽ thấu tỏ được sự diệu dụng của phương tiện ngôn ngữ. Nếu xét về nghĩa thật của đạo, đó chính là chân tâm không sinh diệt hay chánh kiến vô lậu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567