Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tánh Không: Nhị Đế

28/12/201017:34(Xem: 9229)
Tánh Không: Nhị Đế

Đức Đạt Lai LạtMa thứ 14 & Mike Austin
VẦNG SÁNG TỪ PHƯƠNG ĐÔNG

Thích Nhuận Châu dịch, Nguyễn Minh Tiến hiệu đính
Nhà xuất bản Lao Động

TÁNHKHÔNG: NHỊ ĐẾ


MIKE AUSTIN: Xin ngài giải thích tại sao đạo Phật tin rằng tâm thức bị mê lầm;tại sao chúng ta có vô minh từ vô thủy?

ĐẠT-LAI LẠT-MA: Có nhiều dạng mê lầm khác nhau. Theo một cách giải thích thì cóhai dạng. Thứ nhất là mê lầm do không biết. Thứ hai là do hiểu sai. Nếu bạn hỏitừ đâu mà sự mê lầm của tâm thức sinh khởi, thì nó sinh khởi từ sự tương tụctrong một sát-na trước của sự mê lầm. Nếu bạn tìm kiếm một giải thích khác, thìhẳn là phải có sát-na đầu tiên của sự mê lầm. Trong trường hợp này, có lẽ sẽ cómâu thuẫn với lý luận. Như được trình bày trong Tứ bách luận của ngài ThánhThiên: “Dù không có chỗ khởi đầu của phiền não, nhưng có chỗ kết thúc.” Vì tâmthức vô minh nhận lầm mọi sự việc, nên có sự chấm dứt việc mê lầm ấy. Những mêlầm ấy có thể được dừng lại bằng sự thấy biết chân chính (chánh kiến), nhưng vìchúng phát huy tương tục từ sát-na trước của dạng tâm thức mê lầm ấy, nên khôngcó chỗ khởi đầu đối với chúng.


MIKE AUSTIN: Tại sao tâm thức không tự nhiên được giác ngộ?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Một khi tâm có những nhiễm ô - nghĩa là hiện hữu cùng với nhữngnhiễm ô - không thể có được dù chỉ một lần không có nhiễm ô. Nhưng, vì thực thểcủa tâm là luôn chân thực và trong sáng, tâm thực sự hoàn toàn thuần thiện. Dovậy, tâm được gọi là Phổ Hiền. Sẽ có mâu thuẫn về mặt lý luận nếu chorằng ban sơ tâm vốn thanh tịnh rồi sau đó trở nên bị nhiễm ô một cách ngẫunhiên. Do vậy, có thể nói rằng từ khởi thủy, tâm thức vốn đã bị nhiễm ô.


MIKE AUSTIN: Tại sao bản chất giác ngộ chỉ là hạt giống? Tại sao nó không đượcphát triển hoàn toàn?


ĐẠT-LAI LẠT-MA: Vì nó là hạt giống, quả của nó chưa hình thành. Thực tế là mọitâm thức đều được an lập như có sẵn một bản tính chiếu tri, và yếu tố đó có khảnăng chuyển tâm thức thành tâm giác ngộ nên gọi là “hạt giống”. Chẳng có gì hơnthế nữa. Nếu có, thì bạn sẽ cho rằng có một Thượng đế đã tạo ra nó. Rồi bạn sẽphải tìm kiếm bản chất của Thượng đế; khảo sát xem bản chất của Thượng đế cóchỗ khởi đầu và kết thúc hay không.


Có rất nhiều sự tìm kiếm như vậy trong chương 9 cuốn Nhập Bồ Tát hạnh của TịchThiên cũng như trong Lượng thích luận, tác phẩm của ngài Pháp Xứng, chú thíchluận giải của ngài Trần-na. Tôi không có ý phê phán những ai chấp nhận một đấngsáng thế. Tôi chỉ giải thích theo tinh thần đạo Phật. Nếu có những mâu thuẫnnội tại trong một học thuyết, được bộc lộ qua lý luận, thì người ta nên từ bỏhọc thuyết ấy và chọn một học thuyết không có sự thiếu nhất quán như vậy. Nhưđã được trình bày trong điều thứ tư của Tứ y, không y cứ vào thức mà y cứ vàotrí tuệ siêu việt. Có nhiều hiện tượng vốn không thể nhận hiểu được cho đến khinào hành giả có được sự phát triển tâm thức đến cao độ. Có rất nhiều hiện tượngkỳ dị mà ngay bây giờ chúng ta không thể giải thích với dạng tâm thức này.


MIKE AUSTIN: Xin ngài giải thích bằng cách nào mà các tâm sở phiền nãokhác phát sinh, hoặc cách chúng lưu xuất từ căn bản vô minh?

ĐẠT-LAI LẠT-MA: Như tôi đã trình bày, có hai loại mê tối. Thứ nhất là mê lầm vềtrạng thái của các hiện tượng. Thứ hai là nhận thức lầm về bản chất các hiệntượng. Dạng vô minh thứ hai là nhận rằng các hiện tượng tồn tại trên cơ sở tựtính, trong khi vốn không phải như vậy. Trong nhận thức sai lầm về tồn tại trêncơ sở tự tính, lại có hai dạng: nhận thức sai lầm về con người tồn tại trên cơsở tự tính và nhận thức sai lầm về các hiện tượng tồn tại trên cơ sở tự tính.Sự phân chia này được tạo ra do cách thức quan tâm của người sử dụng các đốitượng và đối tượng được sử dụng.


Trong ý niệm con người là tồn tại trên cơ sở tự tính, có những trường hợp nhậnthức rằng cả cái ngã của chính mình và cái ngã của người khác đều thực sự tồntại. Quan niệm hợp thể giả tạm của thân và tâm là một “cái tôi” có thực chínhlà cách nhìn “bản ngã” tồn tại trên cơ sở tự tính.


Với quan niệm này, lại có hai dạng khác nữa. Một là quan niệm do quan sát cáihợp thể giả tạm của thân và tâm mà sinh khởi lên ý tưởng về “cái tôi” và nhậnnó là tồn tại trên cơ sở tự tính. Hai là do quan sát những “cái của tôi” vànhận nó là tồn tại trên cơ sở tự tính.


Bây giờ, trước hết, người ta phát khởi ý niệm về tồn tại trên cơ sở tự tính củacác hiện tượng - tâm và hợp thể các sắc pháp - được xem như là nền tảng thểhiện “cái tôi” . Sau ý tưởng đó, “cái tôi” được thể hiện nhờ vào thân và tâmlại được nhận thức là tồn tại theo cách riêng của nó. Thế thì, với quan niệm vềtính giả hợp như là nguyên nhân, người ta nhận thức rằng “cái của tôi” là tồntại trên cơ sở tự tính.


Như ngài Nguyệt Xứng nói: “Ban đầu có sự chấp trước vào cái tôi - bản ngã - vàsau đó là bám víu vào cái của tôi.” Một khi đã có sự phân loại về chính mình,thì sẽ có sự phân loại về kẻ khác. Khi hai sự phân loại này được phân định, thìngười ta trở nên đắm chấp vào dạng thuộc riêng mình và không thích dạng hướngvề kẻ khác. Từ đây, phát sinh toàn bộ các vấn đề khác. Chẳng hạn, do quan niệmvề tính giả hợp như là một “cái tôi” vốn tồn tại trên cơ sở tự tính, người taphát sinh tính ngã mạn. Thế thì, ngay cả tâm sở hoài nghi - vì đó là trường hợpchú trọng vào “cái tôi” mà không tin vào điều gì khác (nguyên do tối hậu mà“Tôi không tin vào điều này hay điều kia”) - tùy thuộc vào điểm này. Và tâm sởganh ghét, đố kỵ. Cũng vậy, kích động quan niệm về “cái tôi” tồn tại trên cơ sởtự tính là những quan niệm cực đoan: thường hằng và đoạn diệt. Chẳng hạn, tinrằng không có kiếp trước và kiếp sau, hoặc cho rằng khi đã tin có một bản ngãthì cái ngã này sẽ tồn tại vĩnh viễn. Thế nên trước hết, một hiện tượng trìnhhiện như tồn tại trên cơ sở tự tính và khi nó như vậy, thì phẩm chất thiện, ácvà tất cả mọi thứ khác cũng trình hiện theo cách đó. Tâm lúc ấy tán trợ chotrình hiện này. Do đây là một trình hiện dựa vào tính tăng thượng của thiện ác- vượt quá mức thực có - nên tâm thức con người rơi vào các khái niệm cực đoanvề cái thiện ác chân thực và phát ra những thái độ không hợp lí, qua đó, trởlại phát sinh các phiền não.

 

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
18/11/2012(Xem: 10074)
Người Phật tử có trí và hiểu đạo chỉ quan tâm khiến cho mỗi đời sống là một bước tiến trên con đường tiến bộ tâm linh không ngừng, dẫn tới sự giải thoát và giác ngộ tối hậu...
03/10/2012(Xem: 4999)
Hỏi:Lý thuyết về nghiệp có tính cách thực nghiệm và khoa học, hay được chấp nhận bằng đức tin? Đáp:Ý niệm về nghiệp hữu lý trên nhiều phương diện, nhưng một số người đã hiểu lầm về nghiệp. Họ cho rằng nghiệp là số mệnh hay tiền định. Nếu một người bị xe đụng hay buôn bán lỗ, người ta nói: “Họ xui quá, đó là nghiệp của họ .”Đó không phải là ý niệm về nghiệp trong Phật giáo. Thật ra, câu nói này mang ý niệm về ý Trời nhiều hơn, điều mà chúng ta không hiểu và cũng không kiểm soát được. Trong Phật giáo, nghiệp nói về những xung động. Căn cứ vào những hành động ta đã làm trong quá khứ, những xung năng khởi lên trong tâm ta
25/09/2012(Xem: 9821)
Cách tốt nhất để giúp cho người hấp hối là lời nói và hành động của mình phải được thúc đẩy bởi lòng từ bi. Nếu có thể thì cung thỉnh các bậc thầy đức hạnh đến làm pháp chuyển di tâm thức (transference of consciousness at the time of death) cho người hấp hối. Pháp này tiếng Tây Tạng gọi là Phowa, được xem là một pháp tu đặc biệt giá trị và hiệu quả nhất để giúp cho người hấp hối. Các vị quán tưởng hình ảnh đức Phật đang trụ trên đỉnh đầu người hấp hối. Quán tưởng những tia sáng chiếu rọi vào người hấp hối giúp thanh lọc tâm của họ, và quán thấy họ tan thành ánh sáng, hòa nhập vào hào quang của chư Phật. Việc chuyển di tâm thức có thành công hay không là còn tùy thuộc vào sức mạnh tâm linh (định tâm) của người đang thực hiện nghi thức này
29/06/2012(Xem: 4384)
Khi chúng ta sinh ra, cha mẹ hoặc người thân phải đăng ký để chúng ta có được tấm giấy khai sinh, biết được ngày, nơi chốn mà mình ra đời. Khi lớn lên một chút ta đến trường đi học, rồi từng bưóc ta vào tiểu học trung học, đại học, dù đến đâu và làm gì, ta cũng đều ghi danh, nộp đơn, xin giấy tờ v.v... Ta lại phải đăng ký để có những giấy tờ cần thiết mà quốc gia xã hội đó yêu cầu. Khi đi làm ta cũng điền đơn, bằng cấp, giấy tờ, mới hy vọng có đưọc công việc vững vàng.
07/06/2012(Xem: 6214)
Những trường hợp “đầu thai” tại bản Chiềng Châu (Mai Châu, Hòa Bình) diễn ra từ hàng chục năm nay. Những đứa trẻ khi sinh ra hoàn toàn bình thường, đến khi 3-4 tuổi lại nhận mình là… con của những gia đình khác xa đến cả chục cây số.
02/05/2012(Xem: 6085)
Trong khi những tinh yếu của giáo lý Phật giáo như bất bạo động, duyên khởi (sinh môi), vô ngã (tâm lý học hiện đại), vô thường (Thuyết tương đối)… được Tây phương tiếp nhận niềm nở vì khế hợp với những khám phá khoa học hiện đại, những giải thích về nghiệp báo và tái sinh gây ra những khó khăn về nhận thức luận cho các Phật tử Tây phương. Trong Banguyên tắc để kiểm chứng ‘chánh pháp’, thường gọi là ‘Tam Pháp Ấn’ không có ‘nghiệp’ và ‘tái sinh’, tuy nhiên đối với Phật tử Á châu, nghiệp và tái sinh đồng nghĩa với ‘Phật giáo’. Không thể ‘có’ Phật giáo nếu không có ý niệm nghiệp. Nghĩa là không ai có thể tự gọi mình là Phật tử nếu không chấp nhận hay tin lý thuyết ‘Nghiệp’.
02/05/2012(Xem: 5060)
Lama Zopa Rinpoche là giám đốc đỡ đầu của FPMT (Trung tâm Bảo Tồn Truyền Thống Đại Thừa), là một hệ thống các trung tâm, tự viện, trạm xá, trường học Phật giáo trên toàn thế giới. Ngài là tác giả của nhiều đầu sách như Làm thế nào để được Hạnh phúc; Chuyển hóa khổ đau thành hạnh phúc; và Sự Làm Lành Tối Thượng. Kathleen McDonald xuất gia theo truyền thống Phật giáo Tây Tạng năm 1974. Bà cũng là tác giả của nhiều sách Phật giáo nổi tiếng như bộ sách Phương Cách Hành Thiền; Đánh Thức Tâm Từ Bi: Thiền quán về Tâm từ bi.
07/04/2012(Xem: 4441)
1. Bản thân của người vãng sanh phải hội đủ Tam Tư Lương (ba điều kiện) Tín Hạnh Nguyện, lúc bình thường phải dặn dò gia quyết chú ý những điều cần biết khi vãng sanh, Đại Sư Ngẫu Ích dạy: Có được vãng sanh toàn do tín nguyện có hay không, phẩm vị cao hay thấp đều do trì danh sâu hay cạn. 2. Con cái quyến thuộc phải phát đại hiếu tâm và từ bi ân huệ tâm, tuân theo lời Phật dạy như pháp hộ trì cha mẹ thân nhân vãng sanh tây phương, thì gọi là: Tự thoát khỏi trần lao, mới có thể thành tựu. 3. Các liên hữu chân thành hết lòng hộ niệm, thành tựu cho người khác vãng sanh, sẽ được quả báo người khác thành tựu cho mình vãng sanh. Tổ Ấn Quang nói: Khuyên bảo mọi người nên tu tịnh nghiệp, nguyện cho chúng sanh đó là bổn nguyện của Phật. 4. Nếu có thể y theo ba yếu tố như pháp hộ trì trợ niệm, thì nhất định vạn người tu vạn người đi, thành tựu cho chúng sanh vãng sanh tây phương, viên thành Phật đạo, công đức không thể nghĩ bàn. Nếu vãng sanh có chướng ngại, thì phải chân thành cầu Phật gia t
03/03/2012(Xem: 3676)
Nhân mùa An cư tại Thiền viện Trúc Lâm, quý Phật tử trong đạo tràng về đây cúng dường, và tâm khao khát Phật pháp nên thỉnh quý thầy nói chuyện đạo lý để huân tập sâu chủng tử giác ngộ. Tinh thần khao khát đối với pháp của Phật là điều rất quý. Hôm nay, quý thầy nói về đề tài Chết Sống để nhắc nhở cho tất cả cùng ứng dụng tu tập. Lâu nay đa số người thường nói là sống rồi tới chết, con người có sanh ra rồi có tử, là có sống chết. Nhưng ở đây, quý thầy nói ngược lại là Chết Sống.
01/03/2012(Xem: 4047)
Cư Sĩ Nguyễn Hà Minh, bút hiệu Liên Hoa, Pháp danh Thiện Pháp, Chủ biên Trang Nhà Liên Hoa, Cộng tác viên www. thuvienhoasen.org và www.quangduc.com đã từ trần tại tư gia Houston, Hoa Kỳ lúc 8.45 sáng ngày thứ ba, 28/2/2012, nhằm ngày 7-2-Nhâm Thìn, hưởng thọ 62 tuổi.Anh đã được BS. cho biết trước chỉ còn có thể sống được từ 3 đến 6 tháng, nay sau gần một năm ở lại với gia đình, với bạn bè, với trần gian, anh đã từ giã cõi đời. Xin anh hãy thanh thản ra đi, thế gian này không có gì để lưu luyến và xin chân thành phân ưu cùng chị Diệu Tịnh, người bạn đạo và bạn đường thân thiết của anh cùng toàn thể tang quyến. Thành kính nguyện cầu: Hương Linh Thiện Pháp Nguyễn Hà Minh sớm tái sinh vào cõi giới an lành. Xin giới thiệu với quý độc giả bài viết của anh ghi lại ngày sinh nhật lần cuối:
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]