Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Bài giảng thứ tư

07/05/201316:35(Xem: 3178)
Bài giảng thứ tư

Sống, Chết Và Sau Khi Chết

Bài Giảng Thứ Tư

Lama Thubten Yeshe - Vô Huệ Nguyên dịch

Nguồn:Lama Thubten Yeshe - Vô Huệ Nguyên dịch


Ngày hôm qua chúng ta đã thảo luận với nhau về những ảo ảnh xuất hiện trong lúc chết. Theo quan niệm của Phật giáo thì tất cả những lầm lạc, ảo ảnh và ô nhiễm này đều bắt nguồn từ ba nguyên nhân, từ tam độc: tham sân và si.

Tất cả những ảo ảnh đều từ ba độc tố này mà ra. Nếu chúng ta không có ba độc tố này thì chúng ta sẽ không có bất cứ một vấn đề nào trong lúc chết. Nếu được như vậy thì chết sẽ là một sự bình an, một đại lạc. Đó là điều quan trọng. Chúng tôi diễn tả sự chết là sự nhận chìm, là sự thẩm thấu của tứ đại, khi chúng chìm đi chúng để lại những ảo ảnh. Chỉ có những người nào bị tam độc hành hạ mới có những sự mất cân bằng khi tứ đại ra đi. Tứ đại chìm đi có nghĩa là tứ đại không còn cân bằng. Trong kinh thư của Tây tạng danh từ đất, nước và lửa “chìm”, nhưng thực ra chúng không chìm vào nhau. Theo danh từ khoa học, nó bị suy đồi hay bị mất cân bằng. Như vậy, khi một “đại” biến mất là một ảo ảnh xuất hiện, một “đại” khác tan biến là một ảo ảnh khác xuất hiện.

Nguyên nhân thoái hoá của những năng-lượng-không-cân-bằng trong cơ thể là tam độc. Sách y khoa của người Tây tạng giải thích rằng lòng ham muốn sản xuất ra “lung”. Có nghĩa là khí không còn cân bằng. Một khi lòng tham dấy lên là khí trong người không còn đều hoà, nó làm cho hơi thở trở nên nặng nề khó luân chuyển.

Lòng sân hận ganh ghét sản xuất ra mật đắng. Vô minh sản xuất ra TB (ho lao). Lòng tham lam vô độ sản xuất ra xung khí, nó có ảnh hưởng đến hệ thần kinh. Lòng thù hận sản xuất ra qúa nhiều mật đắng có hại cho hỏa đại. Vô minh sản xuất ra nước. Nếu năng lượng trong người mà hoạt động mạnh qúa, hoạt động qúa sức, nó sẽ kích động mạnh tứ đại làm cho con người xáo trộn, kết qủa là sẽ có nhiều lầm lẫn, lộn xộn xẩy ra. Sự thắng thế của một đại trong tứ đại sẽ tạo nên một sự mất thăng bằng trong cơ thể, nó có thể giết chúng ta. Khí lực (phong đại) trong cơ thể của chúng ta là nguồn sinh khí phải không? Nhưng khi nó không còn cân bằng, nó sẽ trở thành tử khí. Cũng vậy, trái tim của chúng ta, sức ấm của chúng ta, cũng là những nguồn sinh lực, nếu nó bị thất thoát cũng sẽ gây ra rất nhiều phiền phức.

Chúng ta cần nước, phải không? Nhưng nếu có qúa nhiều nước, chúng ta cũng bị chết. Vì thế, nếu tứ đại cân bằng với nhau ở trong cơ thể của chúng ta thì chúng ta sẽ có sức khỏe tốt. Nhưng khi một trong tứ đại này mất cân bằng là toàn thể con người bị ảnh hưởng, bị xáo trộn. Đó là sự thật, sự thật về con người của chúng ta.

Rất nhiều người Tây phương đã đọc cuốn Tử Thư Tây Tạng, trong đó diễn tả rất nhiều cảnh kinh khủng, như có nhiều người đến tay cầm dao búa, nhiều người xông đến để chém giết chúng ta. Họ rất là hung dữ, tàn bạo. Đó chính là lòng ham muốn của chúng ta đã sản xuất ra những hình ảnh kinh khủng này.Tôi tin vào sự kiện này, bởi vì trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta đã tích tụ biết bao nhiêu là âm lực (năng lượng âm), biết bao nhiêu là điều không đúng sự thật và biết bao nhiêu lớp mền xấu xa nặng nề từ khi sinh ra đến bây giờ, cộng thêm với những kiếp trước nữa nữa. Cuộc đời của chúng ta hầu như chỉ để sản xuất ra những sai lầm và u mê?

Một lần tôi được nghe kể, có những danh ca đã bán được rất nhiều đĩa nhạc trên khắp thế giới, nếu chúng ta xếp những đĩa nhạc này chồng lên nhau, có thể nó sẽ cao gấp hai lần núi Hy Mã Lạp Sơn. Giống như vậy, những sản phẩm của chúng ta về chiếc mền nặng nề cũng có thể cao gấp ba, gấp bốn lần dãy Hy Mã Lạp Sơn. Do đó, vì những dấu ấn lầm lẫn mà chúng ta đã có, đã tích tụ, đã in sâu vào tâm thức của chúng ta từ muôn vàn kiếp nên chúng ta sẽ thấy, sẽ kinh nghiệm được tất cả những thứ này trong tiến trình của sự chết.

Thí dụ trong thế giới Tây phương, mỗi khi chúng ta nghe một người mắc bệnh ung thư, thì, “ Bị ung thư -- hãy đi vào nhà thương.” Chúng ta có thể tưởng tượng được bệnh nhân sẽ như thế nào trong những ngày tháng nằm ở nhà thương không? Tôi nghĩ rằng đây chính là địa ngục. Tôi không cần phải nghe bất cứ lời diễn tả nào về cảnh địa ngục nữa. Mặc dầu chúng ta đã có rất nhiều sách nói về cảnh địa ngục, đối với tôi, đây là qúa đủ để nhìn thấy những đau khổ mà người mắc bệnh ung thư này đang phải chịu. Một sự đau khổ bất thường. Một sự đau đớn hơn bất cứ một sự đau đớn nào, hơn cả một con vật. Qúy vị hãy tự cảm lấy; không thể tin nổi. Đôi khi chúng ta ý thức được, nhưng rồi chúng ta lại không ý thức và tiến trình của sự chết lại lặp lại.

Thật là khủng khiếp, đây chính là kinh nghiệm cảnh điạ ngục. Nó giống y hệt ở thân trung ấm. Một hình ảnh hung dữ xuất hiện. Chính là tử thần. Nó muốn nuốt tươi chúng ta. Đây chính là con ma đói của chúng ta.

Năm 1978 tôi đến San Francisco để thăm một số người bị bệnh ung thư. Sau khi thăm họ, tôi không ngủ được, nó qúa đau đớn cho tôi. Giống như xem cảnh địa ngục. Tôi không thể ngủ được.

Điều quan trọng là hãy cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Mỗi một ngày nên cố gắng giữ sự trong sạch càng nhiều càng tốt. Hãy giữ chúng ta luôn luôn ở trong tình trạng trong sạch, đừng tạo thêm ô nhiễm qua thân khẩu và ý của chúng ta nữa. Như vậy sẽ không có vấn đề gì xẩy ra cả. Tâm chúng ta cân bằng thì thân thể chúng ta cũng cân bằng, như vậy chúng ta sẽ tránh được bệnh tật.

Khi sự rối loạn, sự lộn xộn xẩy đến trong lúc thiền, hãy coi chúng chỉ là những ảo ảnh không có thật. Cũng như thế, trong tiến trình của sự chết chúng ta coi những hiện tượng xẩy ra đều không có tự tính và không thật nên chúng ta sẽ bớt sợ hơn, sẽ vững tin hơn. Tất cả đều tùy thuộc vào thái độ của chúng ta đặt trên những hiện tượng xẩy ra. Nếu qúa sợ hãi, chúng ta sẽ mất hết sự kiểm soát, sự tự chủ. Nếu một hiện tượng xuất hiện ra mà chúng ta có ý chí mạnh để đối diện với chúng thì chúng ta sẽ dễ dàng kiểm soát được hoàn cảnh.

Thí dụ, một người không thể nào chịu đựng nổi một cơn bệnh trầm trọng, một sự nhiễm trùng nặng nề hay không thể nào đương đầu với sự thất bại thảm thiết. Họ không thể nào giữ cho họ được thanh thản, được an tĩnh trước những cơn khủng khoảng này. Nhưng nếu một người chết một cách tự nhiên, không vì cơn bệnh trầm trọng, không vì sự trầm uất thì họ sẽ dễ dàng giữ cho họ được an bình hơn, được sáng suốt trong giờ phút quan trọng này hơn. Chúng ta có thể nhìn được điều này. Nói rõ hơn, cấp độ tự chủ, cấp độ tỉnh thức, cấp độ sợ hãi trong tiến trình của sự chết hoàn toàn tùy thuộc vào sự nặng nhẹ của tham sân và si.

Chúng ta có thể thắc mắc, làm sao lại tham lam trong lúc chết được. Lòng tham lam đến từ tâm. Ngay cả trong lúc tỉnh, cuộc sống của chúng ta bị dẫn dắt bởi những tư tưởng tham, chiếm hữu, tranh giành, muốn. Trong lúc chết, thân xác của chúng ta thì đóng lại nhưng tư tưởng vẫn tiếp tục đến, vẫn nuối tiếc dĩ vãng vẫn níu kéo tương lai. Giống như trong lúc mơ. Tư tưởng tham cũng như vậy. Nó rất mạnh, vì thế ngay trong lúc thân xác bắt đầu lạnh, ngay trong lúc thân xác không còn cử động, tam độc cũng vẫn làm việc mãnh liệt ở bên trong.

Hạnh phúc thay những người chết một cách tự nhiên, một cách nhẹ nhàng mà không bị những chiếc mền nặng nề lôi kéo. Phúc đức cho họ là họ còn tỉnh thức, còn tự chủ, còn trong sạch. Do đó, khi tứ đại chìm đi, để lại những ảo ảnh dữ tợn họ vẫn tỉnh thức để nhận diện chúng là ảo, là gỉa, không có thật. Họ không có một ý niệm gì về một tự tính của thủy đại, của hỏa đại...vân vân... vì thế họ còn tự chủ. Và rồi từ từ, từ từ từng “đại” chìm đi, thẩm thấu đi, rồi chúng sẽ trở nên trong sáng hơn, trong sáng hơn và hợp nhất hơn giữa vô tự tính và vô nhị-nguyên tính. Và rồi chúng sẽ từ từ được dẫn đến tình trạng ánh sáng trong suốt. Tình trạng này sẽ hoàn toàn giúp đỡ chứ không gây một trở ngại nào. Nó giúp người chết hoà nhập trong sự thật, trong nhất thể. Vì thế, có điều lợi và cũng có điều bất lợi.

Chúng ta không nên quá lo lắng và sợ hãi chết sẽ khó khăn, sẽ tái sinh là súc vật, beo, cọp, lừa, khỉ hay vào ba cõi thấp nhất. Tôi nói rằng chúng ta không nên sợ hãi lo lắng bởi vì chúng ta có lòng từ bi, chúng ta nên phát triển lòng từ bi. Người nào có lòng từ bi với tất cả chúng sinh tại lúc chết thì sẽ không bao giờ sợ hãi bất cứ một cõi nào cả. Với tình thương bao la thì không thể nào vào ba cõi thấp được.

Bây giờ chúng ta lại bắt đầu thiền. Lần trước chúng ta đã thanh tẩy thân xác, thanh tẩy nghiệp của thân. Bây giờ chúng ta thanh tẩy khẩu, lời nói, ngôn từ của chúng ta, thanh tẩy nghiệp của miệng lưỡi. Hãy nghĩ chủng tử đỏ AH tại luân xa cổ họng. Những tia sáng năng lượng có mầu đỏ phát ra từ chủng tử AH. Quán tưởng chủng tử đỏ AH là những lời nói thanh khiết của chư Phật và của chư Bồ tát.

Thanh tẩy có nghĩa là thanh tịnh tâm không được kiểm soát, tâm không tỉnh thức và những lời nói phát ra từ miệng có liên hệ hoạt động đến những người khác, vật khác, sự kiện khác.... Lời nói tiêu cực, lời nói xấu sẽ làm người khác đau khổ vì sự không thành thật, vì vu cáo hay vì phỉ báng. Tâm trong sáng, lời nói thành thật, lời nói được kiểm soát là phương cách thanh tẩy ngôn ngữ không trong sáng và không được kiểm soát.

Vậy hãy quán tưởng chủng tử đỏ AH. Mầu đỏ AH này giống như mầu đỏ của mặt trời lúc hoàng hôn. Hãy quán tưởng những tia sáng mầu đỏ AH tại luân xa ở cổ họng của chúng ta. Toàn thân thể chúng ta được tràn ngập, được bao bọc bởi những tia sáng năng lượng an tịnh này. Trong cùng lúc đó hãy tụng âm AH nhiều lần, và cũng như lần trước, hãy chỉ là trong tình trạng tỉnh thức của chính tâm mình. Hãy chỉ đang là! Hãy an trú trong đó mà không khởi lên bất cứ ý tưởng nào, không diễn dịch, không đối thoại. Hãy chỉ là như vậy, hãy chỉ là chính sự tỉnh thức.

( Lặp lại AH )

Hãy thẩm thấu kinh nghiệm vô nhị-nguyên, vô tự tính của bản ngã, vô, không, zero, không gian rỗng lặng như sự thật, như thực thể, trống rỗng, lặng thinh. Nguồn năng lượng vô biên này đang thấm nhập vào chúng ta.

Một sự thẩm thấu mạnh mẽ. Kinh nghiệm này thực tế hơn những cảm giác mơ hồ từ những giác quan của chúng ta. Nếu có một tư tưởng không được kiểm soát đến quấy nhiễu, như ở trong thân trung ấm (bardo), hãy coi như không phải chỉ xẩy ra cho riêng anh mà nó xẩy ra cho tất cả mọi chúng sinh, tất cả mọi chúng sinh đều có tình trạng này. Hãy phát triển tâm bình đẳng và lòng từ bi, lòng yêu thương đến tất cả muôn loài. Hãy dành tình yêu thương cho tất cả muôn loài.

Tâm không tỉnh thức, tâm rối loạn là nguồn phát ra năng lực yêu thương. Khi lòng yêu thương dâng trào, hãy hướng tất cả những năng lực tình yêu này vào tâm thức của chúng ta.

Vậy, có hai vấn đề: hãy đặt sự tỉnh thức vào tâm của chính chúng ta hay khi có sự rối loạn, sự bất an xẩy ra, hãy chú ý hướng năng lực tình yêu vào tâm thức của chính chúng ta. Hãy luân phiên thay đổi hai sự kiện này.

Kế tiếp, năng lực tình yêu của chúng ta sẽ thị hiện trong kinh mạch chính (shushuma) tại luân xa trái tim của chúng ta như là một vầng trăng sáng tròn đầy. Hãy quán tưởng tại trái tim, trên một vầng trăng, có những tia sáng mầu xanh của chủng tử HUM. Đây là năng lượng trí tuệ vô nhị-nguyên của chư vị Phật và chư vị Bồ Tát. Trái tim của chúng ta hoàn toàn trong sạch, an tịnh, được mở ra bởi những tia sáng của vầng trăng và chủng tử HUM. Những tia sáng xanh vô tận đang phát ra từ HUM. Tất cả những tư tưởng chật hẹp, nông cạn đều phải tan biến đi. Tâm bấn loạn, tâm không an tịnh đang từ từ chuyển hóa, đang từ từ tan biến. Tâm chiếm hữu, tâm bám víu đang từ từ tan biến.

Từ chủng tử HUM và từ vầng trăng có những tia sáng đang dần dần lan toả ra khắp thân thể chúng ta. Thân thể tràn ngập sự an lạc. Tâm nhị nguyên đang được tràn ngập bởi những làn ánh sáng xanh vô tận.

Trong lúc này hãy tụng âm HUM khoảng hai, ba phút. Sau hai phút này, hãy cảm nhận những làn sáng xanh, như tâm thức của chúng ta, đang bao trùm khắp vũ trụ. Sự tỉnh thức của chúng ta đang bao trùm khắp vũ trụ. Hãy cảm nhận và hãy là, mà không có một chút diễn dịch hay suy đoán nào.

( Lặp lại HUM )

Vậy, chúng ta cần có hai kinh nghiệm: trí tuệ và phương pháp. Kinh nghiệm trí tuệ là sự tỉnh thức của thực tại tâm thức của chúng ta. Đây là con đường trí tuệ. Phương pháp là mỗi khi chúng ta rơi vào trạng thái mù mờ, mất kiểm soát: chính kinh nghiệm bấn loạn này là căn nguyên tạo ra lòng từ bi và khi sự rối loạn ra đi hãy an trú ngay vào trí tuệ. Nhắc lại hai sự việc là: khi không có vấn đề, hãy chú ý vào trí tuệ; khi bị rối loạn, hãy dùng phương pháp, phát triển lòng từ bi. Như thế, chúng ta có hai công việc phải làm mỗi ngày.

( Trở lại thiền định )

Hãy thường tụng niệm câu mật chú OM AH HUM. Khi không tiện để tụng dài (ngân dài) câu mật chú này, hãy đọc đơn giản OM AH HUM. Nó cũng đại diện cho cả câu mật chú. Đặc biệt khi tụng âm OM, âm này sẽ đánh thức tất cả mọi hiện tượng, tất cả mọi cõi giới trong vũ trụ; sự tỉnh thức được kích thích, nó sẽ đánh thức tâm thức của chúng ta.

Tôi được nghe nói các nhà khoa học đã có kinh nghiệm về âm thanh khôi phục, bồi dưỡng bộ óc của chúng ta, mặc dầu họ chưa hiểu nó làm việc như thế nào. Họ đã và đang phân tích, nghiên cứu sự kiện âm thanh có ảnh hưởng đến việc khôi phục bộ óc. Họ đã khám phá ra mật chú có tác dụng làm thức dậy sự sinh hoạt của bộ óc, thay vì để chúng im lìm say ngủ. Khi chúng ta tụng “Ommmmmmmm”, chúng ta có thể thấy toàn thể hệ thống thần kinh của chúng ta bị kích thích. Vì thế, thiền định có gía trị đánh thức thay vì ngủ mê ---thức dậy trong tri giác bao la của toàn diện thực tại chứ không phải thức dậy trong u mê, ảo mộng của nhị-nguyên. Mật chú chạm vào thực thể bao la rộng lớn. Đó là lý do mật chú thường được sử dụng.

Tôi nghĩ rằng tôi nên chấm dứt sự trình bày của tôi ở đây. Điều vô cùng quan trọng là bằng mọi cách, chúng ta phải thực sự đi vào tình trạng trong sáng, không phải chỉ dùng trí thông minh mà thôi. Với những kinh nghiệm trong thiền định, chúng ta có thể thay thế, chúng ta có thể cấy sự tỉnh thức của chúng ta vào trong tâm thức của chúng ta thay vì để nó bị rối loạn hoặc ù lì. Được như vậy là đủ tốt rồi. Cấy sự tỉnh thức vào trong tâm thức là phương pháp của Phật giáo, như là thiết lập một hỏa tiễn nguyên tử. Hướng sự tỉnh thức vào trong tâm thức của chúng ta cũng như thiết lập một giàn hỏa tiễn nguyên tử để phóng vào không gian vô nhị-nguyên. Chúng ta hãy tự “thiết lập”, đừng bắt chước theo cách này hay cách kia. Chỉ đặc biệt chú ý vào sự tỉnh thức hay vào chính tâm thức của chúng ta, hệ thống hỏa tiễn nguyên tử nội tại sẽ được kích hỏa, hay sẽ được sửa chữa, để phóng vào không gian vô nhị-nguyên.

Nói một cách khác, nếu chúng ta thành thật quyết tâm thiền định theo phương pháp này, tôi bảo đảm với qúy vị, nếu cần tôi ký giấy bảo đảm cũng được, qúy vị sẽ có kinh nghiệm về gía trị của vô nhị-nguyên. Để giải thích thêm một lần nữa: khi chúng ta chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, được tính không, thì ngay tại lúc đó, hãy có một sự tỉnh thức mãnh liệt, một sự chú ý mãnh liệt, và hãy có một sự lãnh hội sâu xa về nó. Đó là sự thật. Đó là thực thể. Đừng “hỏi và nêu nhiều ý kiến”, đừng thắc mắc “cái này, cái kia”, hãy xây dựng, hãy phát triển một sự mãnh liệt mạnh bạo ở bên trong. Tôi không biết phải diễn tả qua ngôn ngữ như thế nào. Nhưng bằng bất cứ một cách nào đó ở tận bên trong, sức mạnh nội tâm ở sâu thẳm bên trong sẽ thấu hiểu được, sẽ lãnh hội được sự tỉnh thức của tâm là một thực tại, là chính thực thể, sự tỉnh thức chính là thực tại.

Tại sao lại phải đặc biệt chú ý đến việc cần phải có một sức mạnh lãnh hội này? Thông thường chúng ta nghĩ rằng tất cả những ảo giác là sự thật rồi bám víu vào chúng, vồ chụp chúng. Nhưng khi chúng ta kinh nghiệm được, chứng nghiệm được vô nhị-nguyên, chúng ta liền hiểu ngay rằng đó cũng chỉ là những thói quen của chúng ta, chính những thói quen này làm chúng ta tin tưởng vào những ảo giác là sự thật, là vững vàng. Vì thế những kinh nghiệm nội tâm là một cái gì đó không có thực, đó chỉ là sự đảo ngược của tư tưởng. Qúy vị đang nghe tôi đấy chứ? Đó là lý do tại sao cần phải có sức mạnh, cần phải mãnh liệt !

Tôi nghĩ rằng quá đủ rồi. Tôi đã không giải thích nhiều về thân trung ấm (bardo), vì phải dùng qúa nhiều trí thông minh và rất khó giải thích về làm thế nào để một người có thể tái sinh trở lại; nó cần rất nhiều giờ, rất nhiều chi tiết. Tuy nhiên sự quan trọng vẫn là kinh nghiệm, sự chứng nghiệm. Vì thế, chúng ta mới biết rằng chúng ta có khả năng đi vào cõi trung gian bằng kinh nghiệm thay vì bằng những lời nói “ như vậy, như vậy, thân trung ấm, như vậy, như vậy, bardo như vậy, như vậy, tái sinh như vậy, như vậy...” Qua kinh nghiệm của qúy vị, qúy vị sẽ tự khám phá ra.

Bây giờ, qúy vị có thể hỏi ba câu hỏi ngắn. Chắc chắn là tôi đã chọc tức, đã làm mất lòng một số qúy vị ở đây. Vì thế, những điều gì tôi nói không có lý ở đây, những điều gì tôi đã làm cho qúy vị hoang mang, nghi ngờ, xin hãy tự nhiên đặt câu hỏi.

Thính gỉa: Chúng ta có thể giúp người đang chết như thế nào?

Lạt ma: Tùy thuộc vào căn bản hiểu biết, tôn giáo, kiến thức,... của người đang chết. Nhưng dù họ có bất cứ kiến thức nào, theo bất cứ tôn giáo nào, việc quan trọng là chúng ta cần đánh thức họ, kích thích họ tỉnh thức. Điều vô cùng quan trọng là chúng ta không nên chọc tức họ. Khi họ sẵn sàng ra đi, hãy để họ một mình. Đừng cố gắng nói gì cả, như “dùng thuốc đi” hay “hãy ký vào đây”. Một điều vô cùng trở ngại cho người chết là sự khóc lóc, than vãn, như “ Trời ơi, anh sắp chết rồi.”

Thí dụ, tôi là ông bố sắp chết của anh, anh đến bên tôi, anh khóc: “Bố ơi, nếu bố chết, con sống làm sao đây?” Như vậy tôi bị quấy rầy qúa làm sao tôi có thể tập trung vào tình trạng của tôi trong lúc này. Do đó, hãy để cho người ta ra đi, được không? Đừng gây xúc động qúa, đừng gây tức bực qúa, đừng quấy rầy qúa; hãy để họ được bình an, yên tĩnh. Đó là điều vô cùng quan trọng. Càng cho họ niềm tự tin càng tốt. Hãy cố gắng khuyên họ, như : “Khi anh chết, anh sẽ hạnh phúc lắm, đừng lo lắng gì cả, tất cả mọi chuyện sẽ tốt đẹp. Đây là lúc tốt nhất để ra đi. Chúc anh lên đường bình an.” Bất cứ một cái gì kích thích lòng ham muốn, lòng bám víu, lòng ganh ghét, lòng thù hận, lòng luyến tiếc đều không tốt, đều tai hại cho họ. Sự yên tĩnh, một bầu không khí an lành là tốt đẹp nhất.

Nếu họ là một tín đồ Thiên Chúa giáo, hãy nói với họ, “Anh hãy yên tâm, Chúa sẽ săn sóc anh, anh là người có diễm phúc, anh sẽ được vào thiên đàng hưởng nhan thánh Chúa.” Một hành động tích cực trong lúc này là sự cần thiết, bởi vì mặc dù trong lúc này anh ta không là người sùng đạo lắm nhưng ở sâu thẳm trong tâm hồn anh ta, anh ta vẫn cần một cái gì để bám vào, cần một cơ hội để qui thuận. Vậy, khi chúng ta nói, “Jesus” hay “Chúa”, vô thức của anh ta sẽ bắt được. Đây là một việc làm tốt, tôi tin rằng chúng ta có thể giúp họ như vậy.

Có rất nhiều người Tây phương nói rằng họ chẳng có gì để làm với tôn giáo tại địa phương họ; nhưng tôi nhận thấy rằng tôn giáo tại địa phương của họ rất có ảnh hưởng đến các sinh hoạt trong đời sống thường ngày của họ và ngay cả tinh thần của họ. Trong vô thức họ là người Thiên Chúa giáo, mặc dầu họ vẫn tự xưng “Tôi không muốn theo đạo Chúa.” Vì thế, khi vào giờ phút nguy kịch, họ không có gì để bám vào, nếu chúng ta nói, “Chúa” hay “Jesus” thì có một cái gì đó bắt được họ, chạm đến họ. Dĩ nhiên, nếu họ là Phật tử, chúng ta có thể nói, “Buddha” !

Thính gỉa: Chúng ta có thể làm cái gì cho một người đang trên giường chết mà nói, “Tôi sẽ vào địa ngục”?

Lạt ma: Đúng, đó là sự thật. Thỉnh thoảng họ có thể nhìn thấy họ đang trên đường đi vào địa ngục, nên họ kêu lên, “Tôi thấy tôi đang đi vào địa ngục.” Tôi nghĩ, với những người này rất khó giúp họ bằng sự thông minh của chúng ta; chỉ còn sự hy vọng. Có thể giúp họ bằng những viên thuốc an thần để cho họ an tĩnh lại thay vì tăng thêm sự lầm lẫn, sự xáo trộn, bởi vì năng lượng của họ qúa nhiều. Chỉ có cách đó mới có thể giúp họ từ từ. Ngoài ra tôi nghĩ rằng rất khó.

Thính gỉa: Trong Phật giáo Thiền tông, chúng ta có những công án để giúp chứng nghiệm vô tự tính. Thí dụ, có công án như “Thế nào là tiếng vỗ của một bàn tay?” Công án đó giúp chúng ta được những gì trong sự chứng nghiệm tính không? Tiếng vỗ của một bàn tay -- nó liên hệ đến tính không như thế nào?

Lạt ma: Qúy vị có nhớ một lần tôi nói với qúy vị, một người chấp vợ ông ta như là một thực thể tự có và một người đàn bà chấp bạn trai của bà ta như một thực thể tự có? Thí dụ này cũng giống như vậy. Cố gắng đến gần sự thật hơn là cứ bám vào cái này hay cái kia. Quý vị vẫn nghe tôi đấy chứ? Thực ra đây là một ý niệm cứng ngắc, một tư tưởng kỳ quái. Chính phủ Thụy sĩ tin đồng tiền Thụy sĩ như là một thực hữu, rồi tin tưởng rằng đồng tiền Thụy sĩ thực có này sẽ làm cho xã hội Thụy sĩ được hoàn hảo. Nó cũng giống như vậy. Tất cả đều là vọng tưởng, tất cả đều là tưởng tượng -- cái gì chúng ta giữ là thật, là tự hữu -- không chạm vào sự thật được ! Chúng ta cần phải đụng vào đây (hai bàn tay chạm vào nhau) mới tạo ra âm thanh (tiếng vỗ tay) được. Như vậy chúng ta cố gắng chạm vào sự thật và hãy khám phá ra rằng những ý niệm của chúng ta, những ảo tưởng của chúng ta và những ý niệm sẵn có của chúng ta cũng đang cố gắng đi đến sự thật, đang cố gắng tạo ra âm thanh --nhưng nó không tạo ra được âm thanh ! Vì thế, cái không (zero) của ảo tưởng tự-có cũng sẽ biến mất. Đó là phương pháp để chứng nghiệm tính không.

Aâm OM có liên hệ đến các hiện tượng, nó tác động toàn thể hệ thần kinh của chúng ta. Aâm OM không thể tự nó mà có được; cũng như tiếng vỗ tay không tự nó mà có được. Tiếng vỗ tay tùy thuộc vào bàn tay, tùy thuộc vào không gian, tùy thuộc vào năng lượng (sức mạnh của hai tay) và rồi hai tay đụng vào nhau như thế này. Mỗi một âm thanh là một sự liên hệ tùy thuộc, hoàn toàn tùy thuộc vào, hoàn toàn là duyên khởi. Rồi như thế này ..(hai tay vỗ vào nhau)... tạo ra âm thanh. Aâm thanh tự nó không có được, nó không có tự tính.Trong Phật giáo chúng tôi thường nói về vô nhị-nguyên (bất nhị), vô tự tính. Thí dụ, khi qúy vị vào trong một hang động, qúy vị tạo ra một âm “Ahhhhhh”, hang động dội lại “Ahhhhhh”. Qúy vị có quen với hiện tượng này không?

Aâm thanh là một thí dụ rất dễ hiểu về lý duyên khởi. Hiểu được lý duyên khởi thì không còn có một ý niệm về cái tôi thường hằng vững chắc nữa. Nếu chúng ta cứ chấp âm thanh này (vỗ tay) là tự có (của một bàn tay) thì nó sẽ không còn liên hệ đến những cái khác được. Hãy cố gắng hiểu cái hợp lý theo khoa học mà Phật giáo giải thích. Nếu tiếng vỗ tay mà tự nó có được (từ một bàn tay) thì không cần hai bàn tay này va chạm vào nhau và những hiện tượng cũng không có liên hệ gì với nhau.

Tôi nghĩ rằng bây giờ chúng ta đã hiểu rõ các hiện tượng liên hệ phụ thuộc vào nhau như thế nào. Sự hội họp này, dĩ nhiên, cũng không tự nó mà có được. Chúng ta gặp nhau ở đây không phải tự nhiên mà có được. Cám ơn qúy vị nhiều lắm. Xin cám ơn những người đã mời tôi đến đây để diễn giải những đề tài này. Họ đã tốn rất nhiều công sức mới tổ chức được như thế. Nguyện tất cả những công việc nặng nhọc, những cố gắng phi thường của qúy vị mang lại ơn ích cho muôn loài. Cám ơn qúy vị nhiều lắm lắm. Nếu những điều tôi trình bày mà qúy vị không được hài lòng, mà gây cho qúy vị nhiều thắc mắc, thì tôi vẫn còn trên qủa đất này, qúy vị cứ viết cho tôi, tôi sẽ trả lời. Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tất cả những gì tôi đã trình bày, vậy cứ viết cho tôi. Tôi không biến mất ngay bây giờ đâu. Tôi cũng phải làm sạch sẽ những rác rưởi của chính tôi.

Kính chào qúy vị.

(Năm tháng sau, Lạt ma qua đời; mười một tháng sau, ngài tái sinh)



SỐNG, CHẾT và SAU KHI CHẾT
Nguyên tác LIFE, DEATH and AFTER DEATH của LAMA YESHE,
do WISDOM PUBLICATIONS xuất bản.
VÔ HUỆ NGUYÊN dịch
email: [email protected]

XIN HỒI HƯỚNG TẤT CẢ CÔNG ĐỨC ĐẾN MUÔN VÀN CHÚNG SINH TRONG MƯỜI PHƯƠNG PHẬT VÀ MƯỜI PHƯƠNG BỒ TÁT, CON KHÔNG GIỮ LẠI MỘT CHÚT GÌ CHO RIÊNG CON.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
01/11/2024(Xem: 397)
Quý Phật tử (bất bộ phái: theo Nam Tông, Phật Giáo Nguyên Thủy, theo Bắc Tông, hay Tịnh Độ Tông, Mật Tông vv) với lòng tin chân thành, nhất tâm hướng về Như Lai và Pháp của Như Lai, không một chút phân vân, không một chút nghi ngờ về Như Lai và Pháp của Như Lai, thời sẽ vui như hội trăng rằm quanh năm vì Chân Pháp của Thế Tôn là Pháp Quang, vượt xa ánh sáng mặt trời, mặt trăng, tỏa rạng khắp nơi, làm cho khai ngộ, mang lại niềm hỷ lạc cho bất kể hữu tình nào với tâm hân hoan tín thọ, và pháp thọ. Trong kho tàng Pháp Bảo đồ sộ của bậc Thiện Thệ, Bát Trai Giới thanh tịnh dù chỉ trong một ngày một đêm, sẽ mang lại công đức không thể luận bàn cho bất kể Quý Pháp hữu nào hân hoan tín thọ, vì với công đức chân thật này, sẽ tái sanh lên cõi trời, một trong sáu tầng trời dục giới, hoặc sẽ tái sanh về Tây Phương Cực Lạc tùy theo tâm nguyện của họ.
22/08/2024(Xem: 1180)
Khi thấy Đức A Di Đà Phật xuất hiện, Cụ Ông 80 tuổi, vào hai đêm trước ngày ra đi, mặc dù bị bệnh ung thư đại tràng giai đoạn cuối, vẫn mỉm cười niệm Nam Mô A Di Đà Phật; ngay trước giờ xả bỏ báo thân, Cụ Ông, lại một lần nữa, thấy Đức A Di Đà Phật hiện ra; và sau đó tỉnh táo, sáng suốt ra đi an lành. Tâm Tịnh và Hoa Chí cùng con cháu của Cụ có duyên lành hỗ trợ Cụ Niệm Phật suốt tám ngày và tám đêm, khai thị, khuyến khích, làm cho Cụ phấn chấn, đặc biệt, Tâm Tịnh đã tận mắt chứng kiến sự ra đi nhẹ nhàng của Cụ vào lúc 9.40 sáng ngày 11 tháng 07 Quý Mão (2023). Để kỷ niệm một năm giỗ đầu của Cụ, và như một lời hứa khả với quý đạo hữu Tịnh Độ, Tâm Tịnh xin hân hoan tường thuật lại những gì mắt thấy, tai nghe trong suốt thời gian trợ duyên Niệm Phật cùng với Cụ cho đến thời khắc ra đi, kể cả thời gian ban đầu khi nhập viện và thời gian hộ niệm sau khi tắt thở. Từ những gì diễn ra trong những ngày cùng Cụ Niệm Phật, có thể đúc kết thành 14 chỉ dấu sau đây, làm cơ sở cho niềm tin rằng Th
21/01/2024(Xem: 1854)
Tỉnh Thức Đối Diện với Bệnh tật và Cái Chết_Tỳ Kheo Analayo_Bình Anson dịch
06/06/2023(Xem: 7109)
Bất cứ trong một tôn giáo, một triết học nào, phần nhân sinh quan vẫn là quan trọng. Chúng ta theo một tôn giáo mà không biết quan niệm nhân sinh trong tôn giáo ấy như thế nào, thực là một khuyết điểm lớn lao. Ở đây, chúng ta chỉ riêng bàn về phần nhân sinh quan Phật giáo để tìm hiểu Phật giáo quan niệm về đời sống con người như thế nào ?
21/05/2023(Xem: 2006)
Con người thường sợ cái chết nên làm mọi cách để níu kéo sự sống, níu kéo bằng tiền bạc, bằng thuốc men, thức ăn, bằng các hoạt động thể chất. Việc giữ gìn, duy trì sự sống là một điều cơ bản mà bất cứ ai sống trên đời này cũng phải làm để mong mình sống lâu, sống thọ chứ không ai mong mình chết sớm, hay nói đúng hơn là ai cũng sợ cái chết bởi không có một loài động vật có máu huyết nào lại không sợ chết, nhưng sợ chết, không muốn chết thì con người vẫn không thể thoát được cái chết, cho nên thay vì sợ hãi thì chúng ta hãy tập đối diện với quy luật sinh tử như thế nào để vừa giữ được tinh thần lạc quan, vừa duy trì được sự sống của mình một cách trọn vẹn nhất.
22/03/2022(Xem: 3659)
Tôi không ngạc nhiên lắm khi biết dù tác phẩm Chết và Tái sinh ( Death & Rebirth ) đó TT Thích Nguyên Tạng soạn dịch ấn bản lần đầu tiên vào năm 2001 và được tái bản đến 9 lần rồi mà vẫn không đủ cung cấp, cho nên sắp tới Tu Viện Quảng Đức cho tái bản lần thứ 10 để cống hiến bạn đọc gần xa. May mắn thay trong thư viện tí hon của tôi có tác phẩm này được tái bản lần thứ bảy vào mùa Vu Lan báo Hiếu 2007 mà lời ngỏ của tác giả đã đánh động đến con tim của người đọc …qua câu chuyện Luật Sư Brendan Keilar sinh sống tại Melbourne / Australia đã bị bắn chết thật kinh hoàng khi tuổi mới 43 để trả giá cho hành động rất ngưỡng phục ( vì đã can thiệp cứu người).
02/12/2021(Xem: 20035)
Nam Mô A Di Đà Phật. Kính bạch Chư Tôn Thiền Đức, Kính thưa quý đồng hương Phật tử thân mến, Kể từ ngày 12/04/2020, nước Úc của chúng ta cũng như các nước khác trên toàn thế giới đã bắt đầu bị đại dịch Covid hoành hành và lây lan một cách nhanh chóng. Hai năm qua toàn thế giới đã phải chịu ảnh hưởng về mặt kinh tế, chính trị, xã hội, thương trường. Ngay cả đời sống tinh thần của mọi người dân cũng bị ảnh hưởng không ít, nhất là đối với những gia đình đã phải nhìn thấy người thân ra đi trong sự cô đơn lạnh lẽo, không người đưa tiễn. Biết bao hoàn cảnh đau thương... Tính đến hôm nay nước Úc của chúng ta đã được ổn định phần nào, trên 80% người dân đã được tiêm ngừa theo quy định của chính phủ, cũng như việc không còn phải lockdown, người dân được đi lại tự do giữa các tiểu bang cũng như được hội họp, sinh hoạt hội đoàn và tôn giáo. Trong đại dịch, 2 năm qua nước Úc số người bị nhiễm Covid lên đến 113,411 người và số người không may mắn đã ra đi vĩnh viễn là 1,346 người.
01/08/2021(Xem: 12653)
Chuông mõ gia trì là 2 pháp khí rất quan trọng trong nghi thức hành trì và tu tập mỗi ngày đối với người đệ tử Phật. Tiếng chuông, tiếng mõ rất là quen thuộc gần gũi trong sự hành trì tu tập hằng ngày của người Phật tử, nhất là Phật tử theo truyền thống Bắc tông. Phật tử theo truyền thống Nam tông trước kia thì không có gõ mõ, thỉnh chuông khi tụng kinh, nhưng bây giờ đã có chuông rồi, còn bên Bắc tông thì chuông mõ đã có từ ngàn xưa.
26/06/2021(Xem: 15520)
LỜI GIỚI THIỆU “Chết đi về đâu” là tuyển tập các bài pháp thoại của thầy Nhật Từ tại Hoa Kỳ, Úc châu và Việt Nam. Dựa vào kinh điển Phật giáo thuộc các truyền thống khác nhau, thầy Nhật Từ đã phân tích những trở ngại về tâm lí trước cái chết thường làm cho cái chết diễn ra sớm hơn và đau đớn hơn. Nếu chết được hiểu là tiến trình tự nhiên mà mỗi hữu thể đều phải trải qua thì nỗi sợ hãi về cái chết sẽ trở thành nỗi ám ảnh, trước nhất là từ hữu thức sau đó là từ vô thức, làm cho cuộc sống con người trở nên tẻ nhạt và đáng sợ.
01/11/2020(Xem: 19971)
1/Đệ nhất đại nguyện: quốc vô ác đạo. Đại nguyện thứ nhất: Cõi Cực-lạc không có các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy) 2/Đệ nhị đại nguyện: bất đọa ác đạo. Đại nguyện thứ hai: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc không đọa vào các đường ác. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 3/ Đệ tam đại nguyện: thân chơn kim sắc. Đại nguyện thứ ba: Thân của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có sắc vàng. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 4/ Đệ tứ đại nguyện: hình sắc tương đồng. Đại nguyện thứ tư: Hình sắc của chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều bình đẳng, không đẹp xấu khác nhau. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy 5/Đệ ngũ đại nguyện: túc mạng trí thông. Đại nguyện thứ năm: Chúng sinh ở cõi Cực-lạc đều có túc mạng thông, biết rõ các kiếp quá khứ. Nhất tâm đảnh lễ Nam Mô Đại từ đại bi A Di Đà Phật. (1 lạy)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]