Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Chương 19

16/04/201312:21(Xem: 10383)
Chương 19

Tâm Lý và Triết học Phật giáo
áp dụng trong đời sống hàng ngày

Nguyên tác: "Abhidhamma in daily life",
Tác giả: Nina Van Gorkom

Ðại đức Thiện Minh dịch ra Việt ngữ
Kỳ Viên Tự xuất bản, 2001
---o0o---

Chương 19

Tâm Tịnh Hảo trong đời sống

-ooOoo-

Có nhiều loại tâm khác nhau phát sanh trong đời sống của chúng ta và chúng có thể được phân tích thành nhiều cách khác nhau. Chúng được phân tích thành 4 loại:

Tâm thiện
Tâm bất thiện
Tâm quả
Tâm tố

Lối phân tích những tâm khác như sau:

Tâm tịnh hảo
Tâm vô tịnh hảo

Tâm bất thiện và tâm vô nhân là những tâm vô tịnh hảo, chúng không câu hành với những sở hữu tịnh hảo. Như chúng ta đã thấy, có 12 loại tâm bất thiện:

8 tâm tham
2 tâm sân
2 tâm si

Những tâm vô nhân là những tâm không có những nhân (tương ưng) và không có câu hành với những sở hữu tịnh hảo, và do đó chúng là vô tịnh hảo. Như chúng ta đã thấy có 18 loại tâm vô nhân. Chúng được tóm tắt:

10 ngũ song thức
2 tâm tiếp thu
3 tâm quan sát
1 tâm khán ngũ môn
1 tâm khán ý môn
1 tâm sinh tiếu

Như vậy có 30 tâm vô tịnh hảo: 12 tâm bất thiện và 18 tâm vô nhân.

Cũng có những tâm tịnh hảo phát sanh trong đời sống chúng ta, những tâm này câu hành với những sở hữu tịnh hảo. Trong số 3 sở hữu tịnh hảo là nhân. Chúng là: vô tham, vô sân và vô si. Những tâm tịnh hảo thì luôn luôn câu hành với 2 nhân tịnh hảo là vô tham và vô sân và chúng có thể hoặc không thể câu hành với trí tuệ. Do đó tâm tịnh hảo là hữu nhân. Khi chúng ta thực hiện bố thí, trì giới, tham thiền thì có những tâm thiện câu hành với những sở hữu tịnh hảo. Do đó tâm thiện là trong số những tâm tịnh hảo.

Tâm thiện là bố thí, trì giới, tham thiền đây là những loại tâm dục giới. Tâm dục giới là những tâm của chúng ta trong đời sống hằng ngày, ví dụ khi chúng ta thấy, suy nghĩ hoặc mong đợi điều gì. Ðôi khi tâm dục giới phát sanh với nhân tịnh hảo, đôi khi với nhân bất thiện, và đôi khi không phát sanh với bất cứ nhân nào. Bố thí, trì giới và tham thiền là do tâm thiện dục giới thực hiện; những loại nghiệp thiện này có thể thực hiện trong đời sống hằng ngày, vì ở đó có những cảm xúc giác quan. Tâm thiện dục giới còn gọi là tâm đại thiện.

Ðối với người đạt được thiền định lúc đó họ không thấy, nghe hay có những cảm xúc giác quan nào khác, như vậy tâm đó không phải là tâm dục giới, nhưng đó là tâm ở cõi cao hơn: tâm sắc giới và tâm vô sắc giới. Tuy nhiên, khi người đang tu tập thiền chỉ, trước khi họ đắc thiền định thì họ có những tâm đại thiện.

Khi người thành tựu giác ngộ thì tâm nhận biết Níp bàn là tâm siêu thế. Tuy nhiên, tâm thiện siêu thế, tâm đạo được nối tiếp bởi tâm đại thiện trong tiến trình tâm thức trong suốt thời gian họ chứng đắc quả vị giải thoát.

Thường chúng ta muốn có nhiều tâm thiện hơn. Chúng ta có thể nghĩ rằng hoàn cảnh sống của chúng ta và những người khác làm trở ngại sự phát sanh của tâm thiện, nhưng điều naỳ thì không phải như vậy. Nguyên nhân chính là tâm thiện ít phát sanh khi chúng ta thiếu phát huy điều thiện. Nếu chúng ta biết những lý do cho việc phát huy thiện pháp thì sẽ có nhiều tâm thiện trong đời sống của chúng ta hơn. Do học giáo lý chúng ta biết được phương pháp làm điều thiện. Nếu chúng ta không học giáo lý chúng ta có thể nghĩ rằng chúng ta làm điều thiện khi chúng ta có, trái lại là những tâm bất thiện. Ví dụ, chúng ta có thể nghĩ rằng khi bố thí, chỉ có những tâm thiện. Tuy nhiên, tâm tham cũng có thể phát sanh. Chúng ta có thể giúp đỡ điều gì cho bạn bè và chúng ta mong đợi họ đền ơn. Ðây không phải là thiện pháp mà là tham ái. Khi chúng ta học giáo lý, chúng ta biết rằng phương pháp bố thí thanh cao là cho mà không cần sự đền đáp. Khi chúng ta thể hiện những hành động thiện, mục đích của chúng ta là phải làm giãm thiểu tâm ích kỷ, đây là điều lợi ích cho chúng ta và những người khác.

Con người có những nghiệp lực khác nhau và đây là lý do cho sự phát sanh cho tâm thiện và tâm bất thiện. Ví dụ, khi người ta đi chùa thấy những người khác bố thí đến chư Tăng, họ có thể ảnh hưởng việc làm đó bằng nhiều cách khác nhau. Có người ý thức được những hàng động thiện của người khác, có người không quan tâm chút nào cả. Nếu người biết giá trị của việc thiện và nhận thức những hành động thiện của người khác như phương pháp bố thí, người ta sẽ sử dụng nhiều cơ hội hơn cho việc tạo thiện pháp.

Nếu như Ðức Phật chưa thành đạo và Ngài dạy giáo pháp chúng ta sẽ không có sự hiểu biết đầy đủ; chúng ta sẽ không có nhận thức rõ ràng về tâm thiện và tâm bất thiện và những nguyên nhân phát sanh của chúng. Ðức Phật dạy nhân loại phương pháp tu tập thiện pháp và đoạn trừ phiền não, và do đó chúng sanh căn cứ theo giáo điều và thực hiện những thiện pháp này đây là cách thức để cung kính Ngài. Chúng ta xem trong kinh Ðại Níp bàn(Trường bộ II, số 16, chương V, 137,138) trước khi Ðức Phật viên tịch dưới 2 cây Sa la song thọ, mặc dù không phải là mùa của nó nhưng 2 cây Sa la trổ đầy những bông hoa, những bông hoa rơi xuống khắp châu thân của ngài, những bông Mandàrava(Mạn thù) của Chư Thiên và những bột thơm chiên đàn rãi xuống trên thân của Ngài và những tiếng nhạc trời vang dội để cúng dường Ngài. Ðức Phật dạy đại đức Ànanda:

Này Ànanda, như vậy không phải kính trọng tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường hay lễ kính Như Lai. Nhưng nếu có Tỳ khưu, Tỳ khưu Ni, cư sĩ nam hay cư sĩ nữ nào thành tựu chánh pháp và tuỳ pháp, sống chơn chánh trong chánh pháp, hành trì đúng chánh pháp, thơì người ấy kính trọng, tôn sùng, đảnh lễ, cúng dường Như Lai vơí sự cúng dường tối thựơng. Do vậy, này Ànanda, hãy thành tưụ chánh pháp và tuỳ pháp, sống chơn chánh trong chánh pháp và hành trì đúng chánh pháp. Này Ànanda, các thầy phải học tập như vậy.

Trong đời sống hằng ngày, chúng ta có nhiều cơ hội để bố thí, trì giới. Ðối vơí tu tiến, điều này bao gồm Chỉ và Quán, học pháp và thuyết pháp cho những người khác. Không chỉ có các vị Tỳ khưu mà còn có các cư sĩ nữa cũng có thể học pháp và thuyết pháp. Chúng ta xem trong Kinh Ðại Níp bàn(chương III, 112,113):

Ðức Phật dạy Ðại Ðức Ànandavề ác Ma, Ngài dạy, sau khi Như Lai giác ngộ, ác ma cung thỉnh Như Lai giờ này đã hợp thời, Ngài nên nhập Níp bàn:

Này Ànanda, khi được nói vậy, ta nói với ác ma:- " Này ác ma ta sẽ không diệt độ cho đến khi nào không chỉ có Tỳ khưu và Tỳ khưu ni mà còn có nam và nữ cư sĩ trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỹ luật, sẳn sàng, đa văn, duy trì chánh pháp, thành tựu chánh pháp và tùy pháp, sống chơn chánh theo chánh pháp- sau khi học hỏi giáo lý, họ có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tích và giải thích rõ ràng chánh pháp - khi có tà đạo khởi lên, có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, có thể truyền bá chánh pháp một cách thần diệu! Ta sẽ không diệt độ khi nào phạm hạnh mà ta giảng dạy chưa được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn - nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài người!

Thực tế là chúng ta có thể làm những hành động thiện trong đời sống của chúng ta là vì nhân duyên, chứ không vì bản ngã. Chúng ta xem trong Trường Bộ Kinh(III, số 34, thập thượng, chương III, 276) về những yếu tố hỗ trợ cho việc thiện:

Bốn pháp... (bốn phương tiện) có nhiều tác dụng: -chọn nơi lành mà ở, -chọn bạn lành để kết giao, - tự mình tu tập, - phước đã tạo đời trước.

Chọn nơi lành mà ở nghĩa là sống trong xứ quốc giáo vì ở đây có thể là nhân duyên tốt để hỗ trợ cho những tâm thiện. Ở đó người ta có cơ hội đi chùa nghe pháp. Giáo pháp có thể thay đổi đời sống cuả họ, đó là lý do cho việc thực hiện những hành động thiện như là bố thí, trì giới và tham thiền.

Chọn bạn lành để kết giao nghĩa là chọn những người bạn chơn chánh trong giáo pháp. Vì nếu ta sống trong xứ Phật giáo mà không gặp những người bạn chơn chánh trong Giáo pháp, để người đó có thể giúp ích ta trong việc nghiên cứu chân lý, thì xem như ta thiếu nhân duyên tiện lợi cho việc phát huy trí tuệ và đoạn trừ phiền não.

Tự mình tu tập với thiện pháp và xem thiện pháp như là mục tiêu cứu cánh. Có nhiều mức độ thiện pháp. Nếu người ta tu tập trí tuệ theo Bát chánh đạo, hi?u biết danh và sắc, thì sẽ ít có sự dính mắc về bản ngã. Nếu chánh niệm danh và sắc trong khi thực hiện những hành động thiện, người ta sẽ nhận chân là không có bản ngã, không có con người thực hiện những hành động này.Theo phương pháp trên, nghiệp thiện sẽ trong sạch hơn và thậm chí phiền não sẽ được đoạn trừ.

Ðời trước tạo phước là yếu tố thứ tư rất hữu ích. Nghiệp thiện được tạo tác trong kiếp quá khứ là duyên cho chúng ta đi đến nơi lành và gặp gỡ những người bạn tốt. Nghiệp là những nguyên nhân đưa đẩy người ta tái sanh trong xứ Phật giáo. Nghiệp thiện được tạo tác trong kiếp quá khứ là nhân duyên cho việc học và hành giáo pháp hiện tại. Nếu chúng ta xem những yếu tố trong đời sống là những nhân duyên cho những việc thiện, chúng ta sẽ hiểu rõ ràng hơn nó không có bản ngã mà bản ngã thực hiện những hàng động thiện.

Theo Vi diệu pháp, chúng ta thấy rằng có 8 loại tâm đại thiện. Tại sao không chỉ có một loại? Lý do là mỗi loại có nhân duyên phát sanh riêng của nó. Nếu chúng ta biết về những loại khác nhau này và chúng ta có thể nhận biết chúng khi những đặc tính của chúng hiện diện, điều đó sẽ giúp chúng ta không có chấp bản ngã. Bốn loại tâm đại thiện phát sanh với thọ hỷ và bốn loại pháp sanh với thọ xả. Chúng ta muốn có những tâm thiện với thọ hỷ vì chúng ta tham đắm vào thọ hỷ. Tuy nhiên chúng ta không thể cưỡng ép thọ hỷ phát sanh. Ðôi khi chúng ta thực hiện bố thí với thọ hỷ, đôi khi thọ xả. Nó tuỳ thuộc vào nhân duyên thọ hỷ hoặc thọ xả phát sanh với tâm đại thiện. Có 4 loại câu hành với trí tuệ; 4 loại không câu hành với trí tuệ. Ví dụ, chúng ta có thể giúp người khác không có trí tuệ hoặc có trí tuệ. Khi chúng ta nhận thức rằng giúp là thiện pháp, hoặc khi chúng ta nhận biết danh và sắc xuất hiện ở thời điểm đó, thí trí tuệ phát sanh với tâm đại thiện. Có 4 loại không cần nhắc bảo và 4 loại cần nhắc bảo. 8 loại tâm đại thiện là:

Câu hành thọ hỷ, có trí tuệ, không cần nhắc bảo
Câu hành thọ hỷ, có trí tuệ, cần nhắc bảo
Câu hành thọ hỷ, không trí tuệ, không cần nhắc bảo
Câu hành thọ hỷ, không trí tuệ, cần nhắc bảo
Câu hành thọ xả, có trí tuệ, không cần nhắc bảo
Câu hành thọ xả, có trí tuệ, cần nhắc bảo
Câu hành thọ xả, không trí tuệ, không cần nhắc bảo
Câu hành thọ xả, không trí tuệ, cần nhắc bảo

Tâm đại thiện không chỉ là loại tâm tịnh hảo dục giới. Tâm đại thiện là nhân; chúng có thể thúc đẩy nghiệp thiện qua thân, khẩu, ý mà thân khẩu ý có khả năng tạo quả. Cũng có những tâm đại quả, mà nó là những kết quả của nghiệp thiện thực hiện bằng những tâm đại thiện. Tâm đại quả cũng là tâm tịnh hảo, pháp sanh với sở hữu tịnh hảo.Có nhiều loại tâm đại quả vì nghiệp thiện sản sinh ra những loại khác nhau.

Hành động của con người thì không giống nhau và cho nên những kết quả cũng không tương tự. Người ta sanh ra với những tâm tái tục khác nhau. Tâm tái tục là những tâm quả; chúng là kết quả cuả nghiệp; Như chúng ta thấy trước đây (trong chương XI), người ta có thể chào đời với tâm tái tục mà nó là quả thiện vô nhân, hoặc với tâm tái tục là quả hữu nhân, câu hành với nhân tịnh hảo. Trong trường hợp chúng sanh sanh ra trong cõi dục gới khác nhau, tâm tái tục là tâm quả hữu nhân là tâm đại quả. Ngoại trừ tâm đại quả có những loại tâm quả hữu nhân khác mà chúng không phải là kết quả cuả nghiệp thiện dục giới. Nhưng là kết quả của nghiệp thiện của những cõi tâm thức cao hơn. Những loại này sẽ được đề cập sau.

Có 8 loại tâm đại quả. Chúng có thể câu hành với thọ hỷ hoặc thọ xả, chúng có thể có trí tuệ hoặc không có trí tuệ, chúng có thể không cần nhắc bảo hoặc cần nhắc bảo. Chúng được phân tích thành nhiều cách giống nhau như 8 loại tâm đại thiện đã đề cập ở trên.

Tâm hộ kiếp và tâm tử đều là những loại tâm giống nhau như tâm tái tục. Nếu tâm tái tục là tâm đại quả, tâm hộ kiếp và tâm tử của kiếp sống đó thì tương tự loại tâm đại quả.Trong trường hợp trên, chức năng của tái tục, hộ kiếp và tâm tử thực hiện bởi tâm đại quả.

Khi chúng ta thấy cảnh đẹp hoặc cảm nhận cảnh lạc qua các căn môn khác, tâm đó là tâm quả thiện; tuy nhiên loại tâm quả này là quả vô nhân, nó không phải là đại quả. Những chức năng thấy, nghe, ngửi, nếm, đụng qua thân căn, và cũng như những chức năng tiếp thu và quan sát thì không thể thực hiện bởi tâm đại quả, chúng thực hiện do tâm quả vô nhân. Tâm na cảnh, tâm quả có thể phát sanh sau những tâm đổng lực và chúng thực hiện chức năng na cảnh có thể là tâm quả vô nhân hoặc tâm đại quả [1].

Vẫn còn có những loại tâm tịnh hảo dục giới khác nữa: tâm đại tố. Vị A la hán có tâm đại tố thay vì những tâm đại thiện. Bởi vì vị ấy không có nhân duyên cho sự tái sanh các ngài không còn tạo bất cứ nghiệp nào nữa. Các ngài có tâm đại tố mà tâm này thực hiện chức năng đổng lực trong tiến trình căn môn và tiến trình ý môn. Khi chúng ta cảm nhận cảnh lạc tâm tham có thể phát sanh và khi chúng ta cảm nhận cảnh bất lạc tâm sân có thể phát sanh. Vị A la hán thì có tâm xả đối với cảnh lạc và cảnh bất lạc, các ngài không còn phiền não nữa. Vị A la hán có thể có tâm đại tố bất tương ưng trí. Chư vị A la hán có thể có tâm đại tố bất tương ưng trí, vì trí tuệ không cần thiết tương ưng vơiù tâm đại tố khi các ngài không thuyết pháp dạy đạo.

Vị A la hán có những tâm tố tịnh hảo và cũng có những tâm tố vô tịnh hảo. Tâm khán ngũ môn, tâm khán ý môn và tâm vi tiếu có thể thực hiện chức năng đổng lực là những tâm tố vô tịnh hảo. Những loại tâm này không có câu hành với những sở hữu tịnh hảo, chúng là vô nhân.

Có tất cả 8 loại tâm đại tố. Chúng câu hành với thọ hỷ hoặc thọ xả, câu hành với trí tuệ hoặc không câu hành với trí tuệ, cần nhắc bảo hoặc không cần nhắc bảo. Chúng được phân tích tương đương như 8 loại tâm đại thiện.

Tất cả có 54 tâm dục giới là:

12 tâm bất thiện
18 tâm vô nhân

12+18=30 tâm vô tịnh hảo

8 tâm đại thiện
8 tâm đại quả
8 tâm đại tố

24 tâm tịnh hảo

Như vậy có 30 tâm vô tịnh hảo và 24 tâm tịnh hảo dục giới.

Cũng có những tâm tịnh hảo mà không phải là tâm tịnh hảo dục giới:

Tâm tịnh hảo sắc giới
Tâm tịnh hảo vô sắc giới
Tâm tịnh hảo siêu thế

Chỉ có những tâm dục giới mới có thể bao gồm cả tâm tịnh hảo và tâm vô tịnh hảo. Tâm sắc giới , tâm vô sắc giới và tâm siêu thế là tâm tịnh hảo.

Người chưa đắc thiền hay chưa giác ngộ không thể nào biết tâm cuả những cõi này, nhưng họ có thể kiểm chứng giáo pháp đối với cõi dục giới. Chúng ta có thể tự nhận biết có lợi ích hay không khi thực hiện bố thí, trì giới và tham thiền. Chúng ta có thể nhận diện có thể phát huy những phương pháp thiện sự hay không để giúp chúng ta làm giảm thiểu tâm bất thiện. Ðôi khi trong khoảnh khắc chân chánh về việc bố thí, trì giới và tham thiền. Chúng ta có thể phát huy bất cứ lúc nào sự hiểu biết đúng đắn về pháp chân đế, bất kể là chúng ta thực hiện bố thí, trì giới, học hoặc dạy pháp. Sự hiểu biết chân chánh cũng có thể được phát huy khi không có cơ hội bố thí, trì giới, hoặc các thiện sự khác. Do chánh niệm về danh và sắc chúng ta biết những loại tâm khác nhau này phát sanh cũng biết những loại tâm bất thiện và cuối cùng tham sẽ giảm bớt đối với bản ngã. Trong khi chánh niệm chúng ta có thể thẩm tra được giáo pháp.

Chúng ta xem trong Tăng Chi Bộ Kinh(Pháp 7 chi, chương VIII, 9, Thông điệp):

Lúc bấy giờ Ðại đức Upàliđi đến Thế Tôn, sau khi đến và ngồi xuống một bên. Ngồi xuống Ðaị đức thưa: "Lành thay, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết pháp cho con một cách vắn tắt, sau khi nghe Thế Tôn thuyết, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm và tinh cần".

"Này Upàli, những pháp nào mà thầy biết: "những pháp này không đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Níp bàn"

Này Upàli, thầy cần phải nhất hướng thọ trì, đây không phải là pháp, đây không phải là luật, đây không phải lời dạy của Thế Tôn. Và này Upàli, những pháp này thầy cần nên biết: "những pháp này đưa đến nhất hướng, nhàm chán, ly tham, đoạn diệt, an tịnh, thắng trí, giác ngộ và Níp bàn"

Này Upàli, thầy phải nhất hướng thọ trì, đây là pháp, đây là luật, đây llà lời dạy của bậc Ðạo sư."

Chú giải Tăng Chi Bộ Kinh"Manorathapùrani" giải thích danh từ thắng trí là sự thể nhập cuả tam tướng; vô thường, khổ và vô ngã. Danh từ giác ngộ được ám chỉ đạo quả Níp bàn.

CÂU HỎI:

1/- Tâm nào là tâm vô nhân? Chúng luôn luôn là tâm vô tịnh hảo phải không?
2/- Chu vị A la hán có những tâm vô tịnh hảo không?
3/- Tại sao tâm thiền không phải là tâm dục giới?
4/- Tâm đại thiện luôn luôn câu hành với thọ hỷ phải không?
5/- Tâm quả có thể là tâm tịnh hảo không?
6/- Tâm tố có thể là tâm tịnh hảo không?
7/- Tại sao vị A la hán có tâm đại tố thay ví tâm đại thiện?
8/- Có bao nhiêu loại tâm dục giới?

Chú thích:

[1] Xem chương 15. Tâm na-cảnh vừa là tâm vô nhân vùa là tâm hữu nhân.

---o0o---

Source : BuddhaSasana Home Page

---o0o---

Trình bày : Nhị Tường

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
10/12/2018(Xem: 11124)
Lời tác giả: Việc biên soạn chắc chắn không tránh khỏi những chỗ sai sót, chúng tôi ước mong được sự lượng thứ của các bậc cao minh. Những sự sửa sai và bổ khuyết của quý vị độc giả sẽ giúp bài viết này được đầy đủ và hoàn hảo hơn trong lần viết lại; đó quả là niềm vinh hạnh cho chúng tôi. NVT
06/12/2018(Xem: 4570)
Đối với nhiều người Phật tử, từ bi là quan trọng hơn cả, và nếu không có từ bi thì không có đạo Phật. Đạo Phật là con đường diệt khổ, vậy thì từ là đem vui, bi là cứu khổ, còn gì đúng hơn nữa khi nói đạo Phật là đạo của từ bi ? Nhưng người ta cũng có thể tự hỏi : có thể nào thâu gồm lại đạo Phật trong hai chữ từ bi ? Liệu từ bi có đủ để định nghĩa đạo Phật, để phân biệt đạo Phật với các tôn giáo và triết thuyết khác ? Nói một cách khác, có thể nào xem từ bi như là một đặc điểm của đạo Phật ? Nhìn chung quanh, chúng ta thấy đạo giáo nào cũng chủ trương tình thương bao la, rộng lớn, như lòng bác ái của đức Ky Tô, thuyết kiêm ái của Mặc tử. Nhưng chỉ có đạo Phật mới nổi bật lên bằng sự đề cao trí tuệ. Có thể nói rằng trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại, không có một tôn giáo nào đặt trọng tâm vào vai trò của trí tuệ hơn là đạo Phật. Bởi vì Buddha (Phật) phát xuất từ chữ Phạn bud, có nghĩa là hiểu biết. Đức Phật là người đã hiểu biết trọn vẹn, đã tỉnh thức, đã giác ngộ, l
02/12/2018(Xem: 9852)
Thời gian gần đây nhiều Phật tử đã yêu cầu tôi giải thích những lời dạy vô giá của Phật theo phương cách hiện đại, xử dụng thuật ngữ và diễn giải thực tế, có hiệu quả, thực tiễn và không quá cao siêu. Theo phương cách dễ hiểu và thực tế để áp dụng trong đời sống hằng ngày. Đây là tập sách đầu của một chuỗi những tập sách nhằm mục đích đáp ứng những thỉnh cầu này. Đây là tập sách sưu tập gồm 50 lời dạy ngắn kèm theo chú giải chi tiết dài ngắn khác nhau, mục đích để khuyến khích tất cả những vị đã dành thời gian để đọc và thực hành những lời dạy này để phát triển sự hiếu biết chân thật và lòng từ bi.
26/11/2018(Xem: 13009)
Chúng tôi đến thăm Việt Nam một vài lần, tôi nhớ có lần chúng tôi đang ở Hà Nội. Lúc đó là Đại hội Phật Giáo, tôi cũng có buổi thuyết trình cùng với những vị khác nữa. Hôm đó đang ngồi đợi, thì có một vị Thầy trẻ người Việt đến chào, sau khi hỏi từ đâu đến, tôi nói tôi đến từ Australia. Thầy ấy nói, oh… woh… vậy Thầy có biết vị Tăng tên Ajahn Brahm không? … (cả Thiền đường cười). Tôi trả lời: Tôi là Ajahn Brahm đây. Thế là Thầy ấy tỏ ra rất hào hứng, tôi cũng hào hứng... Tôi thích Việt Nam. Tôi thích người Việt.
04/09/2018(Xem: 9212)
Tu Tứ Đế Pháp, Bốn Chân Lý Chắc Thật, Đức Từ Phụ Thích Ca Mâu Ni Phật, sau khi Chứng Đạo dẹp tan sự quấy nhiễu của ma quân ở cõi Trời Tha hóa thứ sáu vào nửa đêm ngày mùng 8 tháng 2 năm Tân-Mùi. Việt lịch Năm 2256 HBK*. Tr.BC.596. Sau Thời Hoa Nghiêm Phật đến vườn Lộc Dã Uyển truyền dạy Bốn Pháp Tứ-Đế, độ cho năm vị từng theo Phật cùng tu thuở trước, thành bậc Tỳ Khưu đắc đạo. Năm vị đó là: 1/. A Nhã Kiều Trần Như, 2/. A-Thấp Bà, (Mã-thắng) , 3/ .Bạt-Đề, 4/. Ma-Ha-Nam, 5/. Thập-Lực-Ca-Diếp. Năm Vị nghe pháp Tứ Đế rồi, tu tập chứng A La Hớn Quả. Tứ Đế Pháp: 1. Khổ Đế. 2. Tập Đế. 3. Diệt Đế. 4. Đạo Đế. -Khổ Đế, là Ác quả của Tập Đế. -Tập Đế, là tạo Nhân xấu của Khổ Đế. -Diệt Đế, là Thiện quả của Đạo đế. -Đạo Đế, là Nhân tu của Diệt Đế.
13/08/2018(Xem: 7460)
Các Phân Khoa Phật Giáo Thích Thái Hòa Tôi viết bài này, xin chia sẻ đến những ai muốn quan tâm đến lãnh vực giáo dục trong Phật giáo, nhưng chưa có điều kiện để nghiên cứu. Trong Phật giáo có năm phân khoa như sau: 1/ Phật giáo Đại chúng Thời Phật, xã hội Ấn Độ phân chia thành bốn giai cấp, gồm: - Bà-la-môn (Brāhmaṇa): Giai cấp Tăng lữ, giai cấp học giả của xã hội Ấn Độ bấy giờ. Họ tự nhận sinh ra từ miệng Phạm-thiên. Giai cấp này làm mai mối giữa thần linh với con người. Họ có sáu quyền hạn: Tự ý làm đền thờ trời; làm thầy tế để tế trời; tự ý đọc Phệ đà (veda); dạy người khác đọc Phệ đà (veda); tự bố thí và tự nhận sự bố thí.
03/06/2018(Xem: 25489)
CHÁNH PHÁP Số 79, tháng 06.2018 NỘI DUNG SỐ NÀY:  THƯ TÒA SOẠN, trang 2  TIN TỨC PHẬT GIÁO THẾ GIỚI (Diệu Âm lược dịch), trang 3  THÁNG SÁU EM VỀ HẠ CHỨA CHAN (thơ Tiểu Lục Thần Phong), trang 7  CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP (Sa môn Thích Tín Nghĩa), trang 8
17/03/2018(Xem: 11906)
Con người càng ngày càng đông đảo trên thế gian nhưng từ trước đến nay có được bao người giác ngộ, giải thoát khỏi nghiệp chướng, khổ đau? Cho dù, Phật Pháp có đơn giản, dễ dạy đến đâu nhưng khi mà nhân duyên chưa tới với những kẻ độn căn thì cho dù bồ tát có tái sinh, cố tâm chỉ độ pháp Phật cao siêu vi diệu cho nhân sinh còn đầy vô minh cũng chỉ tốn công vô ích, chẳng khác gì đem đàn gảy cho trâu nghe. Một trong những pháp môn đơn giản nhứt của Phật Pháp đó là thiền định (Zen). Zen khả dĩ có thể giúp cho hành giả giảm bớt căn thẳng tâm thần. Nếu luyện tập chuyên cần, Zen có khả năng giúp thân tâm có đủ sức mạnh lẫn nghị lực tinh thần để chuẩn bị đối phó với trở ngại xãy ra. Zen có thể giúp ta hóa giải tâm lý lúc mà đau khổ tái phát làm khổ tâm thân trong cuộc sống thay vì mong tu hành giác ngộ, giải thoát, thành Phật quá xa vời. Cũng như những pháp môn khác, Zen có mục đích giúp ta lúc “đa tâm bấn lo
14/03/2018(Xem: 11872)
Sài Gòn- Trần Củng Sơn- Sáng ngày Thứ Sáu 9 tháng 3 năm 2018, giáo sư Vũ Thế Ngọc đã trình bày về triết học của Tổ sư Long Thọ tại chùa Xá Lợi Sài Gòn với sự tham dự khoảng một trăm thiện hữu tri thức Phật Giáo. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc- một cây bút nổi tiếng trong nước về những bài viết về tuổi trẻ và Phật Giáo- đại diện Ban tổ chức giới thiệu diễn giả.
13/03/2018(Xem: 12836)
Từ lúc sinh ra, tất cả chúng ta muốn sống một đời sống hạnh phúc và đó là quyền của chúng ta. Tuy nhiên, nhiều người cùng chia sẻ quan điểm rằng hệ thốn giáo dục hiện hữu của chúng ta là không đầy đủ khi đi đến việc chuẩn bị cho con người yêu thương hơn – một trong những điều kiện để hạnh phúc. Như một người anh em nhân loại, tôi nguyện làm cho mọi người biết rằng tất cả chúng ta cùng sở hữu những hạt giống của từ ái và bi mẫn. Có một bộ não thông minh chưa đủ; vì chúng ta cũng cần một trái tim nhiệt tình
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]