Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Sự khác biệt giữa Phật giáo và Cơ đốc giáo (Differences between Buddhism and Christianity)

24/04/202316:55(Xem: 4087)
Sự khác biệt giữa Phật giáo và Cơ đốc giáo (Differences between Buddhism and Christianity)


dao phat-dao co doc-2

Sự khác biệt giữa Phật giáo và
Cơ đốc giáo

(Differences between Buddhism and Christianity)

 

Đạo Phật và Cơ đốc giáo đều được khai sáng bởi những bậc Đạo sư tâm linh vĩ đại, những người đã tìm cách đưa ra con đường dẫn đến sự giải thoát và cứu rỗi. Thuật ngữ các Ngài sử dụng thường khá khác nhau. Ngoài ra, đo hoàn cảnh khác nhau mà các Ngài hóa thân, giáo lý của các Ngài đã dạy những con đường khác nhau và đối với tâm kinh nhấn mạnh những cách tiếp cận khác nhau.  

 

Đức Phật hay Đức Chúa Giê Su Ky Tô đều không tự viết ra những lời dạy của riêng các Ngài. Trong cả hai trường hợp, những giáo lý của các Ngài đã được kết tập nhiều năm, sau khi các Ngài xả báo thân rời khỏi trần gian. Khoảng cách này giữa giáo lý của các Ngài và có nghĩa là phiên bản kết tập, luôn có khả năng xảy ra lỗi và hiểu sai giáo lý của các Ngài. Ngoài ra, khi các tôn giáo mới phát triển, chúng đã phát triển theo những cách khác nhau.

 

Một số khác biệt đáng kể giữa đạo Phật và Cơ đốc giáo

 

Đức Chúa Trời

 

Tín đồ Thiên Chúa giáo xem Đức Chúa Trời như đấng chúa tể và đấng sáng tạo ra  họ, trong khi Phật tử lại nhìn Đức Phật như kiểu mẫu và lý tưởng của mình. Phật giáo đồ không tin có một đấng Thượng đế sáng tạo. Trong khi Cơ đốc giáo, khái niệm về Đấng Thiên Chúa hiện ra rất lớn.

 

Trong Kinh Cựu Ước, Đức Chúa xuất hiện với tư cách là người ban phát Công lý thiêng liêng, đây là một khái niệm hầu như không có trong đạo Phật.

 

Cầu Nguyện – Thiền định

 

Thiền định và chánh niệm của đạo Phật đặt nền tảng trên đạo đức và giúp nảy nở lòng từ bi và trí tuệ. Cơ đốc giáo nhấn mạnh nhiều hơn về cầu nguyện.

 

Ân điển/Nỗ lực cá nhân

 

Đạo Phật chú trọng nỗ lực cá nhân nhiều hơn, Cơ đốc giáo chú trọng đến Ân điển nhiều hơn.

 

Luân hồi Chuyển kiếp Đạo Phật nhấn mạnh đến vòng sinh tử luân hồi bất tận và ý niệm chuyển kiếp. Cơ đốc giáo dạy chúng ta có một cơ hội trong cuộc sống.

 

Cứu  rỗi và Giải thoát

 

Cơ đốc giáo nhấn mạnh khái niệm ‘sự cứu rỗi’. Sự cứu rỗi đến từ việc chấp nhận đức Chúa Giêsu là vị cứu tinh. Đối với những người tin vào Chúa Giêsu Kitô, Kitô hữu tin rằng họ sẽ đạt được cuộc sống vĩnh cửu trên Thiên đàng. Phật tử có một sự nhấn mạnh khác, họ tin rằng một cá nhân phải tự nỗ lực thực hiện để giải thoát cho chính mình – một sự thực nghiệm có thể nhiều kiếp tu hành. Một Phật tử cho rằng niềm tin vào Đức Phật là chưa đủ, người tìm kiếm cõi Niết bàn hay Cực lạc phải tự nỗ lực trải nghiệm, thông qua chuyển hóa bản chất và tự chuyển hóa để thân tâm thanh tịnh.

 

Điểm tương đồng giữa đạo Phật và Cơ đốc giáo

 

1. Được thành lập bởi một bậc Đạo sư tâm linh người nhận đệ tử.

 

2. Giáo lý giảng dạy thông qua việc sử văn học như các câu chuyện ngụ ngôn đơn giản.

 

3. Cả Chúa Giêsu Kitô và Đức Phật đều tìm cách cải tạo tập tục lạc hậu trong xã hội/tôn giáo hiện có, đã bị bôi nhọ thành các hình thức nghi lễ không có ý nghĩa tâm linh. Chúa Giêsu Kitô đã chỉ trích những người cho vay tiền trong các nơi thờ tự tín ngưỡng dân gian. Đức Phật chỉ trích chế độ đẳng cấp và thói đạo đức giả của Bà La môn giáo.

 

4. Cả hai đều là những người bình đẳng. Đức Phật chấp nhận tất cả giai cấp vào tăng đoàn của mình. Chúa Giêsu Kitô đã rao giảng triết lý không chỉ dành cho một chủng tộc nhỏ.

 

5. Các giá trị được chia sẻ. Ngũ giới của đạo Phật (Bảo Vệ Sự Sống, Hạnh Phúc Chân Thật, TNuôi Dưỡng và Trị Liệuình Thương Đích Thực, Ngữ và Lắng Nghe) hầu hết đều được Cơ đốc nhân hoan nghênh.

 

6. Cả hai tôn giáo đều nhấn mạnh lối sống có Đạo đức, Từ bi/Bác ái đối với người khác.

 

7. Cả hai đều dạy vượt qua nghiệp lực hận thù thông qua sự mầu nhiệm của Từ bi, Bác ái. Đức Phật dạy: “Chỉ có từ bi mới dập tắt được ngọn lửa hận thù. Không thể lấy đánh trả đánh, lấy chửi trả chửi, mà chỉ có thể dùng giọt nước nhành dương để xua tan thù hận, chỉ có vậy tâm chúng ta mới được bình an.” Chúa Kitô dạy: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em.”

 

8. Giống như đạo Phật,  Cơ đốc giáo cũng khuyến khích các đồ đệ thực hiện các bước để cải thiện sức khỏe thể chất lẫn tinh thần họ.

 

9. Giống như Cơ đốc giáo, đạo Phật có một khía cạnh có một khía cạnh lòng mộ đạo mạnh mẽ. Điều này được đặc trưng bởi niềm tin vào Đức Phật. Điều này đặc biệt được đánh dấu trong các truyền  thống Phật giáo như Tịnh độ tông, vốn nhấn mạnh đến việc nguyện sinh về thế giới Cực lạc của Đức Phật A Di Đà, hay thế giới Tịnh Lưu Ly của Đức Phật Dược Sư.

 

10. Cả hai tôn giáo đều khuyến khích các tín đồ của họ khởi từ bi tâm, lòng bác ái, làm từ thiện giúp đỡ những mảnh đời bất hạnh, người nghèo khó.

 

11. Cả hai tôn giáo đều có cách tiếp cận người tu sĩ sống độc thân và cư sĩ tại gia. Mặc dù yếu tố tu sĩ sống độc thân không có trong đạo Tin Lành ngày nay.

 

12. Cả hai đều khao khát sự hoàn thiện tinh thần lớn hơn. Mặc dù họ có những cách tiếp cận khác nhau, nhưng cả hai đều đang tìm kiếm một sự hoàn hảo tâm linh cao hơn.

 

13. Cả hai đều tìm cách vượt qua thế giới cám dỗ của vật chất xa hoa. Họ tin rằng hạnh phúc thực sự có được từ các giá trị tinh thần và ý thức tâm linh.

 

13. Ý thức về Thần thánh. Đúng là Đức Phật không nói về Thượng đế. Phật giáo không cho rằng Thượng Đế có năng lực sáng tạo vạn vật, cũng không thừa nhận Thượng Đế có quyền ban phúc giáng họa đối với chúng sinh. Đức Phật xem Thượng đế cũng là một trong 6 loại chúng sinh; bất quá vì ở các đời trước, có tu phúc báo, cho nên ngày nay được sinh lên các cõi Trời để hưởng lạc. Đức Phật nói về sự bình an vô tận, ánh sáng vô biên và niềm hạnh phúc vô tận của Niết bàn. Thượng đế là gì nếu không phải là ý thức siêu việt này?

 

Trích dẫn: Pettinger, Tejvan. “Sự khác biệt giữa đạo Phật và Cơ đốc giáo”, Oxford, Vương quốc Anh – www.biographyonline.net. Xuất bản ngày 8 tháng 1 năm 2013. Cập nhật ngày 12 tháng 1 năm 2018.

 

Việt dịch Thích Vân Phong

Nguồn Biography Online

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
22/01/2014(Xem: 9097)
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín có từ “phát thú đạo tướng” , phân tách Tướng Đạo mà tất cả chư Phật chứng đắc, tất cả chư vị Bồ Tát phát tâm tu hành để mau chứng đắc quả vị Phật. Trên có từ “Phát Thú” nghĩa là phát tâm hướng về, cất bước ra đi hướng thẳng về một mục tiêu nhất định gọi là “Thú Hướng”. “Phát Thú Đạo Tướng” nghĩa là phân định các tướng sai khác của sự phát tâm hướng đến Đạo. Đạo tức là Bồ Đề, Niết Bàn mà chư Phật đã chứng đắc. Đó là Bản Giác, Nhất Tâm Chân Như, tự tướng của Nhất
19/01/2014(Xem: 8787)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
12/01/2014(Xem: 11871)
Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là „Buddhism: A Quest for Unity and Peace” (1993). Các tiểu tựa là của người dịch.
25/12/2013(Xem: 6995)
Toàn tri toàn giác không thể được phát sinh mà không có nguyên nhân, bởi vì đâu phải mọi thứ luôn luôn là tòan tri toàn giác đâu. Nếu mọi thứ được sinh ra mà không liên hệ đến điều gì khác, chúng có thể tồn tại mà không có sự câu thúc - sẽ không có lý do tại sao mọi thứ không thể là toàn tri toàn giác.
24/12/2013(Xem: 7978)
Phần khảo sát trong Phật Học Từ Điển (đã trích dẫn) viết về Chân Như như sau: “Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt. Cái Chân Như thì đầy đủ nơi Phật. Nó cũng vẫn có nơi chúng sinh. Những chử dưới đều đồng nghĩa, đồng thể với Chân Như: Tự tánh thanh tịnh, Phật tánh, Pháp Thân, Như Lai Tạng, thật tướng, pháp giới, pháp tánh, viên thành thật tánh, Pháp vị.” Trong Duy Thức Luận có viết về ba Chân Như như sau: 1/ Vô tướng Chân Như: Chân Như không tướng; là cái thể của các pháp khắp cả, không có tướng hư chấp. 2/ Vô sanh Chân Như: Chân Như không sanh; các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra chứ hẳn là không thật có sanh .
24/12/2013(Xem: 10233)
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì : “Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác (vốn tỉnh giác sẳn). Cái Bổn Gíac ấy do bề trong ung đúc và nhờ cái duyên ngoài thầy dạy, mới khởi ra cái lòng chán chuyện tham cứu thuận theo bổn giác lần lần sanh ra có trí giác ngộ kêu là Thủy Giác (sau mới tỉnh giác). Bổn Giác đó tức là bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) vốn thành sẵn vậy. Thủy Giác là bốn đức mới thành ra sau nầy vậy.”
20/12/2013(Xem: 37838)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
17/12/2013(Xem: 18248)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 8977)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
14/12/2013(Xem: 36715)
Năm 2006, khi tôi viết thư xin phép Thiền sư Bhante H. Gunaratana để dịch quyển tự truyện cuộc đời ngài, Hành Trình Đến Chánh Niệm (Journey To Mindfulness), Thiền sư không những đã từ bi hoan hỷ cho phép, mà còn giới thiệu về quyển sách mới của ngài, Eight Mindful Steps To Happiness. Do duyên lành đó hôm nay bản dịch của quyển sách trên được đến tay độc giả với tựa Bát Chánh Đạo: Con Đường Đến Hạnh Phúc.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]