Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Tắc 25 đến 36: Hàng thứ ba nói Pháp

29/03/202119:03(Xem: 4874)
Tắc 25 đến 36: Hàng thứ ba nói Pháp
VÔ MÔN HUỆ KHAI
CỬA KHÔNG CỬA (VÔ MÔN QUAN)
Dịch giả: Dương Đình Hỷ

Tắc Hai Mươi Lăm
HÀNG THỨ BA NÓI PHÁP

Cử :
Ngưỡng Sơn nằm mộng thấy đến cung trời Đâu Xuất của Phật Di Lặc, ngồi vào hàng thứ 3. Có vị tôn giả bạch chùy rằng :
-Hôm nay người ở hàng thứ 3 nói pháp.
Sơn đứng dậy bạch chùy :
-Nghe cho kỹ, nghe cho kỹ ! Pháp Đại Thừa là ly tứ cú, tuyệt bách phi.

Bình :
Thử hỏi Ngưỡng Sơn nói pháp hay không nói pháp ? Mở miệng là mất mạngngậm miệng là chôn thây; ngay cả khi không mở, không ngậm thì cũng còn xa chân lý 10 vạn, 8 ngàn dậm.

Tụng :

白 日 青 天
Bạch nhật thanh thiên
夢 中 說 夢
Mộng trung thuyết mộng
捏 怪 捏 怪
Niết quái niết quái
誑 呼 一 眾
Cuống hô nhất chúng.

Ngay giữa ban ngày
Nói mộng trong mộng
Bịa ra chuyện này
Lừa gạt đại chúng.

Chú Thích :
-Ngưỡng Sơn là học trò của Quy Sơn. Hai thầy trò là sáng tổ của dòng Quy Ngưỡng. Đây chỉ là một giấc mộng, nhưng trời đất lại chẳng phải là mộng sao ? Ngưỡng Sơn toàn thân là tâm bồ đề, ngay trong mộng cũng còn nói pháp.
(Thánh Tham)

-Tứ cú : có, không, vừa có vừa không, không có không không.
-Bách phi : 100 sự phủ định.
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 : nếu các ông đạt đạo và ở trong đại định thì mọi sự việc đều rõ như ban ngày.
Câu 2 : các ông đang nằm mộng trong một thế giới mộng. Đừng mộng một giấc mộng điên.
Câu 3 : đây là một chuyện kỳ thú.
Câu 4 : đây là mánh lới cũ rích của Vân Môn dùng lời nói vô lý để tạo nghi tình nơi các ông. Ông ta đang nói về các ông chứ không phải nói về Ngưỡng Sơn.
(Sekida)

-Các triết gia và các nhà thần học luôn luôn phân tích và tranh luận về chân lý. Đó chỉ là những giảng giải và khái niệm hóa. Chân lý của Đại Thừa (trong đó có Thiền tông) là không chấp : vượt lên lời nói và tư tưởngĐời sống không phải là một khái niệm mà là ở đây và bây giờ. Đại Thừa mà Ngưỡng Sơn dạy, chỉ thẳng vào thực tại chúng ta phải chứng nghiệm nó cả đời.
(Kubose)

Tắc hai Mươi Sáu
HAI TĂNG CUỐN RÈM

Cử :
Trước buổi thọ trai, chư tăng tới tham Thanh Lương Đại Pháp Nhãn. Nhãn chỉ cái rèm. Lúc đó có 2 ông tăng ra cuốn rèm lên. Nhãn nói :
-Một được, một mất.

Bình :
Thử hỏi ai được, ai mất ? Nếu các ông có một con mắt soi thấu bí mật thì sẽ thấy chỗ thất bại của Thanh Lương quốc sư. Tuy là vậy, kỵ nhất là bàn cãi về việc được mất.

Tụng :

捲 起 明 明 徹 太 空
Quyền khởi minh minh triệt thái không
太 空 猶 未 合 吾 宗
Thái không do vi hợp ngô tông
爭 似 從 空 都 放 下
Tranh tự tòng không đô phóng hạ
綿 綿 密 密 不 通 風
Miên miên mật mật bất thông phong.

Cuốn bức rèm lên, thái không hiện
Thái không chưa hẳn hợp tông ta
Sao bằng tất cả đều bỏ xuống
Chặt chẽ chẳng cho gió lọt qua.

Chú Thích :
-Giải thích về bài kệ :
Câu 1 : đạt đạo là cuốn lên bức rèm vô minh, hòa nhập vào Thái Không.
Câu 2 : sao bằng tất cả đều buông xuống : khi các ông đạt được tiến bộ khi tọa thiền, các ông phải quên đi những gì các ông đã đạt được.
Câu 3 và 4 : đừng để tay trái biết tay mặt đang làm gì.
-Mỗi sự việc đều có 2 mặt, một tốt, một xấu, một được một mất. 2 ông tăng cuốn rèm lên là được vì tỏ ra hiểu ý thầy, nhưng đồng thời cũng là mất vì ra vẻ ta đây là điều cấm kỵ trong thiền học.
(Sekida)

-Pháp Nhãn nói một ông tăng giác ngộ còn một ông tăng thì không, một người đúng, một người sai mặc dù họ cùng làm một việc, cùng lúcCông án này chỉ rằng ở trong tuyệt đối, tương đồng là sai biệtsai biệt là tương đồng. Giống như nước ở trong ly. Cả 2 đều trong suốt nhưng nước là nước, thủy tinh là thủy tinh. Mặt khác Pháp Nhãn cố làm cho thiền sinh bối rối để thử sự hiểu biết của họ. Đừng tin vào một cái gì chỉ vì thiền sư nói thế. Có thể chính thiền sư đã sai.
(Kubose)

Tắc Hai Mươi Bẩy
KHÔNG PHẢI TÂM, PHẬT

Cử :
Một ông tăng hỏi Nam Tuyền :
-Còn có pháp nào chưa nói cho người không ?
-Có.
-Pháp chưa nói là pháp gì ?
-Không phải là tâm, không phải là Phật, không phải là vật.

Bình :
Để trả lời câu hỏi này, Nam Tuyền đã dùng hết cả của cải, thật đáng nực cười.

Tụng :

叮 嚀 損 君 德
Đinh ninh tổn quân đức
無 言 真 有 功
Vô ngôn chân hữu công
任 從 滄 海 變
Nhậm tòng thương hải biến
終 不 為 君 通
Chung bật vi quân thông.

Lắm lời làm mất đức
Không lời thật có công
Mặc cho đời dâu biển
Cũng chẳng chỉ cho ông.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : dù có giảng đi giảng lại cũng chỉ làm tổn thất hình tượng của thiền sưĐại Đạo chân chính là không lời, diệu dụng vô cùng.
Câu 3 và 4 : dù câu hỏi của ông có đảo lộn cả trời đất thì tôi cũng không thể nói rõ cho ông cái không hình tướng, không thể dùng lời để miêu tả.
-Thực ra trong Bích Nham Lục ghi vấn đáp trên là của Nam Tuyền và Bách Trượng, còn một đoạn nữa như sau :
-Đã nói rồi mà !
-Đệ chỉ biết vậy, còn sư huynh thì sao ?
-Tôi không phải là đại thiện tri thức đâu biết đã nói, chưa nói.
Nam Tuyền thưa :
-Đệ không hiểu.
-Tôi đã vì ông mà nói rồi !
Lúc trước Mã Tổ nói “Tức tâm, tức Phật”. Tâm đã là Phật rồi còn đi tìm Phật ở đâu nữa ? Nhưng nói vậy có vẻ tự cao, tự đại nên lại nói :”Phi tâm, phi Phật, phi vật”. Câu của Bách Trượng : “ Tôi không phải là đại thiện tri thức đâu biết đã nói, chưa nói”. Là chấp nhận câu trả lời của Nam TuyềnNam Tuyền nói : “Đệ không hiểu” là cố tình truy vấn. Câu đáp của Bách Trượng “Tôi đã vì ông mà nói rồi” là chỉ tôi đã mượn mồm ông mà biện giải rồi còn gì !
(Viên Thông)

-Đây là một công án rất khó. Câu hỏi thật ra là :
-Chánh pháp có thể giảng ra được hay không ?
Khi Nam Tuyền được hỏi có một giáo lý vượt lên lời nói không ? Ông trả lời có và rồi mô tả nó không phải là tâm, là Phật, là vật. Chánh Pháp vượt lên lời nói. Khi nói ra, giảng giải nó liền bị hạn chế và không phải là thực tạiChư pháp vô thường, một vật không thay đổi thì không phải là thực tại, nó là một khái niệm.
(Kubose)

Tắc Hai Mươi Tám
NGHE TIẾNG LONG ĐÀM ĐàLÂU

Cử :
Đức Sơn thỉnh ích Long Đàm đến tối, Đàm bảo :
-Đêm khuya rồi, sao ông còn chưa đi ?
Sơn trân trọng vái chào, vén rèm bước ra, thấy bên ngoài tối thui bèn quay lại thưa :
-Bên ngoài trời tối.
Đàm thắp đuốc giấy trao cho, Sơn định đón lấy. Đàm liền thổi tắt. Sơn do đó bỗng nhiên có tỉnh, bèn vái lạy.
-Ông thấy đạo lý gì ?
-Con từ nay không dám nghi ngờ miệng lưỡi các lão hòa thượng trong thiên hạ.
Hôm sau Long Đàm thượng đường bảo :
-Trong đây có một gã răng như rào kiếm, miệng như chậu máu, nện một gậy chẳng quay đầu, một ngày kia lên cô phong đỉnh lập đạo ta.
Sơn đem sớ sao ra trước tăng đường giơ đuốc lên bảo :
-Những huyền diệu chỉ là một sợi lông trong Thái Hư, mọi yếu quyết chỉ là một giọt nước đổ vào vực lớn.
Bèn đốt hết sớ sao, lạy tạ rồi đi.

Bình :
Đức Sơn khi chưa ra cửa, lòng giận bừng bừng, miệng thốt lời cay đắng muốn đi về Nam để giệt ngoài giáo truyền riêng. Khi trên đường đến Lễ Châu, hỏi bà lão mua đồ điểm tâm.
Bà lão hỏi :
-Trong xe của đại đức chở sách gì vậy ?
-Sớ sao kinh Kim Cương.
-Trong kinh nói “Tâm quá khứhiện tạivị lai đều không nắm được. Đại đức muốn điểm tâm là điểm tâm nào ?
Đức Sơn bị một câu hỏi như vậy thì câm miệng, không chết quách đi cho rồi mà còn hỏi lại bà lão :
-Ở gần đây có vị thầy nào chăng ?
-Ngoài đây 5 dậm có hòa thượng Long Đàm.
Đức Sơn bèn đến Long Đàm giở hết lỗi lầm. Câu trước chẳng ăn nhập gì với câu sau. Long Đàm như người thương con không biết xấu, thấy con nghịch lửa vội dội nước bẩn dập tắtTrầm tĩnh mà xét thật đáng tức cười.

Tụng :

聞 名 不 如 見 面
Văn danh bất như kiến diện
見 面 不 如 文 名
Kiến diện bât như văn danh
雖 然 救 得 鼻 孔
Tuy nhiên cứu đắc tỵ khổng
爭 奈 瞎 卻 眼 睛
Tránh nại hạt khước nhãn tinh.

Nghe danh chẳng bằng gập mặt
Gập mặt chẳng bằng nghe danh
Dù rằng cứu được lỗ mũi
Nào ngờ con mắt thông manh.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : kiến văn chẳng bằng thể nghiệm.
Câu 3 và 4 : nếu chấp kinh điển thì bị kinh điển xỏ mũi lôi đi. Đức Sơn đốt sớ sao là cứu được cái mũi. Nhưng không chấp vào kinh điển khác với không đọc kinh điển. Không đọc kinh điển giống như có mắt mà bị mù.
-Tâm không có thực thái, chỉ bất quá xuất hiện trong một thời gian ngắn ngủi rồi biến mất. Tâm quá khứ đã qua rồi, tâm hiện tại thì chỉ trong sát na, tâm vị lai thì còn chưa xuất hiện, như vậy đều không nắm được.
(Đạo Long)

-Thiền không dùng lời, cứu cánh là chứng ngộ tâm không phân biệt. Đêm tối đen, đốt đèn lên rồi lại thổi tắt đi ám chỉ ánh sáng ở bên ngoài tắt rồi, ánh sáng ở nội tâm sẽ sáng lên khiến ta thấy được chân ngã. Do đó, ngôn ngữ văn tựý thức phân biệt chỉ là một giọt nước trong biển cả.
(Tinh Vân)

-Công án này so sánh học vấn và trí tuệ. Học vấn là loại tri thức có thể thu thập được do nghe, đọc.
Trí huệ là độc nhất, sáng tạocá nhân, không thể cho ai, cũng không ai có thể lấy đi được. Đức Sơn là một học giả chuyên nghiên cứu kinh Kim Cương và nương dựa vào đó. Khi nhận đèn giấy từ Long Đàm ông tưởng sẽ dựa vào đó mà soi đường đi. Khi Long Đàm thổi tắt đèn, ông không còn gì để nương tựa vào. Chúng ta phải có ánh sáng nội tâm để không gì thổi tắt được.
(Kubose)

-Trong sinh hoạt hàng ngày có thể từ những sự việc bình thường mà có thể thân thiết lãnh hội thiền ý, thì sự lãnh hội này còn thật hơn là do sự suy luận. Cũng như người chỉ học lý thuyết bơi lội chưa chắc đã dám xuống sông bơi lội như những đứa trẻ nhà quê bơi lội chỉ nhờ kinh nghiệm.
(Học Thành cư sĩ)

-Bất kể chúng ta đang ở đâu, nên nhận định mình ở hoàn cảnh nào ? trạng huống mình ra sao ? không so sánh mình trong quá khứ và hiện tại, cũng không so sánh mình với người, vì sẽ sinh ra tự tôn hoặc tự ty, vĩnh viễn bị ngoại cảnh ảnh hưởng, không làm chủ được mình. Mình là sao thì là vậy. Ngoài trời tối, có đèn thì càng tốt, không có đèn cũng chẳng sao. Vượt lên sáng tối, đối lập mới thật là giải thoát tự tại.
(Thánh Nghiêm)

 Tắc Hai Mươi Chín
KHÔNG PHẢI GIÓ, KHÔNG PHẢI CỜ

Cử :
Nhân gió thổi, cờ bay, có 2 ông tăng biện luận. Một ông nói cờ động, một ông nói gió động. Cãi qua cãi lại chưa ra lẽ. Lục tổ bảo :
-Không phải gió động, không phải cờ động, là tâm các ông động.
2 ông tăng kinh sợ.

Bình :
Không phải gió động, không phải cờ động, không phải tâm động, các ông thấy tổ ở đâu ? Nếu các ông biết rõ chỗ này thì các ông biết 2 ông tăng bán sắt được vàng. Tổ sư không thể nhịn được, bị lận đận một phen.

Tụng :

風 幡 心 動
Phong phan tâm động
一 狀 領 過
Nhất trạng lĩnh quá
只 知 開 口
Chỉ tri khai khẩu
不 覺 話 墮
Bất giác thoại đọa.

Gió, cờ, tâm, động
Tất cả đều nhầm
Chỉ biết mở miệng
Lời đã sai lầm.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : chấp vào cảnh (gió, cờ), hay vào tâm (Lục tổ) đều sai.
Câu 3 và 4 : mở miệng ra là sai vì khái niệm không phải là thực tại.
-Từ công án này chúng ta có thể thấy quan điểm của các thiền sư đối với ngoại cảnh là quay về với tự tâm, chứ không ngừng lại ở sự vật. Sự tồn tại của hiện tượng là phiến diệnhoàn toàn do chúng ta khởi tâm động niệm, phân biệt mà có. Do đó chúng ta phải đạt tới cảnh giới động tĩnh là một. Nếu tâm chúng ta trừ được vọng tưởng sai biệt thì chứng được Niết Bàn tịch tĩnh.
(Tinh Vân)

-Câu chuyện đến đây vẫn chưa hết. Về sau trong các đệ tử của Ngưỡng Sơn có một ni cô tên Diệu Tín, sử sự mọi việc rất thông minh, nhanh nhẹn. Ngưỡng Sơn biết ni cô có tài bèn giao cho toàn quyền phụ trách tiếp đãi những khách bên ngoài tới. Một ngày kia có 17 vị hành cước tăng người Tứ Xuyên đến thăm chùa, chuẩn bị hỏi pháp Ngưỡng Sơn. Sau bữa ăn chiều, các vị hành cước tăng không có chuyện gì làm, bèn tranh luận về Phật pháp. Khi đề cập đến gió động, cờ động thì 17 vị có 17 ý kiến, tranh cãi náo loạn, âm thanh lọt đến tai Diệu Tín. Diệu Tín lập tức hét lớn lên :
-17 ông tăng kia, ngày mai trước khi đi phải thanh toán tiền phòng, tiền cơm cho rõ ràng.
Thái độ uy nghiêm khiến các ông hành cước tăng bỗng im bặt, không biết làm sao cho phải. Diệu Tín lại ra lệnh :
-Không được tranh cãi, hãy đến trình diện tôi. Tôi sẽ nói cho các ông nghe.
17 người bất giác chạy đến trước mặt Diệu Tín. Diệu Tín nói :
-Nếu đã không phải gió động, cũng không phải cờ động làm sao tâm động ?
Các ông tăng hoát nhiên khai ngộ; đều thấy không cần phải nghe Ngưỡng Sơn giảng pháp nữa. Ngày hôm sau, toàn thể đến từ biệt Diệu Tín mà đi.
Hai ông tăng chấp vào ngoại cảnh (gió, cờ). Câu nói của Lục tổ là chấp vào tâm. Thực ra thì tổ đã vượt lên tâm và cảnh. Ở đây tổ chỉ đơn giản chỉ cho 2 ông tăng chấp vào cảnh là sai lầm. Câu nói của Diệu Tín phá cả tâm và cảnh mới là hoàn toàn không chấp. Những gì khái niệm hóa thì không phải là thực tại. Thiền dạy chúng ta nhìn và hiểu sự vật như chính nó, chứ không bằng sự phân tích hay khái niệm hóa.
((Kubose)

Tắc Ba Mươi
TÂM LÀ PHẬT

Cử :
Đại Mai hỏi Mã Tổ :
-Phật là thế nào ?
-Tâm là Phật.

Bình :
Nếu ngay đó các ông hiểu được thì mặc áo Phật, ăn cơm Phật, nói lời Phật, làm việc Phật, là Phật vậy. Tuy là thế, Đại Mai đã dẫn không thiếu người nhận lầm định tinh. Sao ông có thể hiểu ra hễ nói đến chữ Phật chúng ta phải xúc miệng 3 ngày ? Nếu là một người hiểu biết nghe nói tâm là Phật, hắn phải bịt tai chạy mất.

Tụng :

青 天 白 日
Thanh thiên bạch nhật
切 忌 尋 覓
Thiết kỵ tầm mịch
更 問 如 何


Cánh vấn như hà
抱 臟 叫 屈
Bão tang khiếu khuất.

Ban ngày sáng tỏ
Chớ đi tìm quanh
Lại hỏi sao thế ?
Cầm vật kêu oan.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 ; Tâm là Phật, đi tìm Phật ở ngoài tâm thì không thể nào thấy.
Câu 3 và 4 : Phật trong tâm mình còn chưa lý giải, nhận thức, thể nghiệm lại còn đi hỏi người ta thế nào là Phật ?
-Câu trả lời cho câu hỏi đơn giản này có thể là bất cứ cái gì, quan trọng là không chấp vào lời, nhưng hiểu rõ lời chỉ về đâu. Mọi người đều có tiên kiến rằng Phật là hoàn toàn, cao quý, thánh thiệngiác ngộ. Nhưng Phật không phải là một đấng thượng đế, tách rời khỏi đời thường. Phật tánh thì thanh tịnh nhưng đồng thời hiển hiện ở mọi vật, kể cả những vật ô uế, tầm thường.
(Kubose)

Đại Mai (752-839) : pháp danh Pháp Thường, họ Trịnh người Tương Dương.

 

Tắc Ba Mươi Mốt
TRIỆU CHÂU KHÁM PHÁ BÀ LÃO

Cử :
Một ông tăng hỏi bà lão :
-Đi hướng nào đến Đài Sơn ?
-Cứ đi thẳng.
Ông tăng vừa đi được năm, ba bước, bà thêm :
-Thật là ông tăng tốt, lại đi đường ấy.
Sau có ông tăng kể lại cho Triệu Châu nghe, Châu nói :
-Đợi tôi đi khám phá bà lão này cho các ông.
Ngày hôm sau liền đi, cũng hỏi như vậy, bà lão cũng đáp như vậy.
Châu trở về bảo đại chúng :
-Tôi đã vì các ông đi khám phá bà lão ở Đài Sơn rồi !

Bình :
Bà lão chỉ biết ngồi trong màn bầy binh bố trận, giặc tới không hay. Lão Triệu Châu giỏi nghề đánh úp cướp trại, lại không có vẻ đại trượng phuKiểm điểm lại, cả 2 người đều sai. Thử hỏi Triệu Châu khám phá bà lão ở chỗ nào ?

Tụng :

問 既 一 般
Vấn ký nhất ban
答 亦 相 似
Đáp diệc tương tự
飯 裡 有 砂
Phạn lý hữu sa
泥 中 有 刺
Nê trung hữu thứ.

Hỏi đã là một
Đáp cũng thế thôi
Trong cơm có cát
Trong bùn có gai.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : câu hỏi trước sau là một, câu đáp trước sau không khác.
Câu 3 và 4 : câu hỏi và câu đáp đều là cơ ngữ, không thể căn cứ trên chữ mà lý giải, phải chứng ngộ ý ở ngoài lời.
-Một câu trả lời cố định không thích hợp cho mọi trường hợpchân lý của đời sống là sự biến dịch.
(Thái Chí trung)

-Đài Sơn Tự là một ngôi chùa nổi tiếng được nhiều khách hành hương viếng thăm. Dưới chân núi có một quán nước của một bà cụ. Bà cụ là một thiền giả, cụ nội quán các ông tăng ghé qua. Khi Triệu Châu đến quán nước, ông cũng như các ông tăng, hỏi đường đến Đài Sơn và bà cụ đã trả lời tương tự. Khi ông đi được vài bước, bà cụ cũng nói :
-Lại một ông tăng tốt đi đường đó.
Vấn đáp thì tương tự, chỉ là các ông tăng khác bị bà cụ khám phá, còn lần này bà cụ lại bị Triệu Châu khám pháChủ ý của công án này là ông đang ở đâu ? Triệu Châu tuy lập lại hành động của các ông tăng nhưng ông tự đi đường riêng của mình.
(Kubose)

-Bà lão nói “Cứ đi thẳng” là khuyên các ông tăng chuyên tâm nhất ý cầu Phật đạo đừng để ngoại cảnh sai xử, nếu bị người cười chê, chọc giận cũng không bị sân hận làm lay chuyển lòng cầu đạoCon người là một động vật có cảm tính. Cảm tính dễ làm mất lý tính. Do đó chúng ta nên nhớ kỹ lời bà lão “cứ đi thẳng”. Để cầu chân lý chúng ta phải vứt bỏ mọi sân hận đối với đối phương, hiểu biết đối phương, yêu thích ưu điểm của đối phương. Lấy ưu điểm của đối phương bổ túc cho khuyết điểm của mình. Nếu được vậy con người sẽ gần gũi nhau hơn, xã hội cũng không có đối lập tranh chấp. Đó mới là vượt qua đối phương và chính mình.
(Chung Sĩ Phật)

Tắc Ba Mươi Hai
NGOẠI ĐẠO HỎI PHẬT

Cử :
Ngoại đạo hỏi Thế Tôn :
-Không hỏi có lời, không hỏi không lời.
Thế Tôn vẫn ngồi yênNgoại đạo tán thán :
-Thế Tôn đại từđại bi vẹt đám mây mê khiến con có chỗ vào.
Bèn lạy rồi đi ra. A Nan hỏi Phật :
-Ngoại đạo chứng được gì mà tán thán rồi đi ?
-Như con ngựa hay, thấy bóng roi đã chạy.

Bình :
A Nan tuy là đệ tử của Phật mà kiến giải không bằng ngoại đạo. Thử hỏi các ông ngoại đạo và đệ tử Phật khác nhau bao nhiêu ?

Tụng :

劍 刃 上 行
Kiếm nhẫn thượng hành
冰 稜 上 走
Băng lăng thượng tẩu
不 涉 階 梯
Bất thiệp giai thê
懸 崖 撒 手
Huyền nhai tát thủ.

Đi trên kiếm sắc
Chạy trên tảng băng
Khỏi vượt thang bậc
Vách đá tay buông.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :

Câu 1 và 2 : diễn tả câu hỏi có lời, không lời của ngoại đạo.
Câu 3 và 4 : Thiền tông không có giai đoạn, ngộ là bước vào ngay cảnh giới Phật.
-Sự im lặng của Thế Tôn rất năng động. Vị ngoại đạo liền hiểu ngay và cảm ơn Ngài, nhưng A Nan thì lại không hiểu. Chân lý vượt lên lời nóiĐời sống chỉ có thể hiểu được bằng chính cuộc sống.
(Kubose)

-Khi đã ngộ rồi thì sống trong thế giới không, không thể dùng lời để diễn tả được vì như vậy là chủ quan, là chọn lọc do đó bị trói buộc. Nhưng nếu không nói ra thì làm sao truyền bá Phật pháp ? Ý của Bà La Môn là vậy. Để trả lời Đức Phật chỉ ngồi yên lặng, chỉ rằng chỉ cần thiền địnhthoát ly phiền não. Vị Bà La Môn đã tu hành thâm sâu nên mới hiểu được ý Phật. Câu đáp của Phật xác nhận sự xuất sắc của vị Bà La Môn.
Kinh Tạp A Hàm có ghi 4 loại ngựa :
1.Thấy bóng roi đã chạy.
2.Roi quất vào đuôi đã chạy.
3.Roi quất vào mình đã chạy.
4.Phải đánh mạnh có khi đến chẩy máu mới chạy.
(Minh Tuệ)

Tắc Ba Mươi Ba
CHẲNG TÂM, CHẲNG PHẬT

Cử :
Một ông tăng hỏi Mã Tổ :
-Phật là Thế nào ?
-Chẳng tâm, chẳng Phật.

Bình :
Nếu các ông thấy được chỗ này, thì việc tham học đã xong.

Tụng :

路 逢 劍 客 須 呈
Lộ phùng kiếm khách tu trình
不 遇 詩 人 莫 獻
Bất ngộ thi nhân mạc hiến
逢 人 且 說 三 分
Phùng nhân thả thuyết tam phân
未 可 全 施 一 片
Vị khả toàn thi nhất phiến.

Nếu gập kiếm khách thì tặng kiếm
Không gập thi nhân chẳng tặng thi
Gập người chớ nên nói ra hết
Chừa lại cho mình một chút chi.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : khi giảng pháp phải tùy vào đối tượng và hoàn cảnh, phải linh hoạt để người nghe tự ngộ.
Câu 3 và 4 : giảng pháp là một thủ đoạn khai ngộ phải dùng phương tiện thiện xảo.
-Để trả lời câu “Phật là thế nảo ?”, các vị thiền sư đều trả lời khác nhau. Lúc trước Mã Tổ nói “Tức tâm, tức Phật”, đã làm Đại Mai khai ngộ, nay ông lại nói ngược lại “Phi tâm, phi Phật”. Nhiều giải thích tỷ mỉ đã được nêu lên, nói tóm lại “Tức tâm, tức Phật” là chánh đề, “Phi tâm, phi Phật” là phản đề, còn kết luận đề là sao ?
Chính Mã Tổ đã trả lời câu hỏi này. Ông nói :
-Tức tâm, tức Phật là để dỗ con nít khỏi khóc.
-Khi con nít ngưng khóc rồi thì sao ?
-Phi tâm, phi Phật.
-Thầy sẽ dạy thế nào khi một người đã trừ được cả 2 thứ này ?
-Phi vật.
-Nếu một người đã vượt hết những thứ này ?
-Bảo hắn hãy thể hội đại đạo.
Vậy thế nào là Đại Đạo ? Chính tâm này là Phật . . . và cái vòng luẩn quẩn tiếp diễn.
(Sekida)

Mã Tổ (709-788) : pháp danh Đạo Nhất, họ Mã, người Thập Phương, Hán Châu.

 

Tắc Ba Mươi Bốn
TRÍ CHẲNG LÀ ĐẠO

Cử :
Nam Tuyền nói :
-Tâm chẳng là Phật, Trí chẳng là Đạo.

Bình :
Có thể nói Nam Tuyền là lão già không biết mắc cỡ. Vừa mở miệng hôi, nếp xấu của nhà đã lộ. Tuy là vậy cũng ít kẻ biết ơn.

Tụng :

天 睛 日 頭 出
Thiên tinh nhật đầu xuất
雨 下 地 上 濕
Vũ hạ địa thượng thấp
盡 情 都 說 了
Tận tình đô thuyết liễu
只 恐 信 不 及
Chỉ khủng tìn bất cập

Trời tạnh nhật sáng lòa
Mưa xuống đất được tưới
Có gì đều nói ra
Chỉ sợ tin không tới.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : trời tạnh mặt trời chiếu sáng, trời mưa thì đất được tưới ướt.
Câu 3 và 4 : chân lý là tâm bình thường là đạo, rất giản dị, nhưng nói ra thì ít người tin nhận.
-Nam Tuyền là đệ tử của Mã TổMã Tổ dạy “Tức tâm, tức Phật”. Câu trả lời nổi tiếngphổ biến cho câu hỏi “Phật là thế nào ?” Khái niệm hóa Phật mà không có kinh nghiệm sống là điều tệ hại nhất trong Thiền học. Để phá cái chấp này Nam Tuyền nói tâm không phải là Phật, trí không phải là Đạo.
(Kubose)

Tắc Ba Mươi Lăm
THIẾN NỮ LÌA HỒN

Cử :
Ngũ tổ Diễn hỏi một ông tăng :
-Thiến nữ lìa hồn, người nào là thật ?

Bình :
Nếu các ông ngộ được chỗ này thì vào thân, ra thân như ra vào lữ quán, còn chưa thì chạy loạn. Khi đất, nước, gió, lửa phân tán, thì các ông như con cua bể bị nước sôi, càng cua khua loạn, đừng trách tôi không báo trước.

Tụng :

雲 月 是 同
Vân nguyệt thị đồng
溪 山 各 異
Khê sơn các dị
萬 福 萬 福
Vạn phúc vạn phúc
是 一 是 二
Thị nhất thị nhị.

Khe núi mỗi khác
Mây trăng chẳng sai
Vạn phúc vạn phúc
Là một, là hai.

Chú Thích :
-Giải thích bài kệ :
Câu 1 và 2 : trăng sáng chỉ có một nhưng có thể chiếu sáng vạn vật thiên sai vạn biệt, cũng tương tự như tự tánh Thể chỉ có một, nhưng Dụng thì thiên hình vạn trạng.
Câu 3 và 4 : -Phổ Dung tăng chủ nói : Tự tánh và sắc thân hợp thành một người (tỷ dụ 2 Thiến Nữ hòa lại thành một) Tuy là trong sắc thân có tự tánh nhưng mọi người không biết, không thấy. Sắc thân và tự tánh tuy cùng ở chung nhưng 2 bên không liên lạc với nhau.

-Trong tập Thái Bình Quảng Ký, Trần Huyền Hữu có chép truyện Ly hồn ký. Đời Đường, Trương Giật sống ở Hoành Châu có một đứa con gái là Thiến Nữ và một đứa cháu ngoại là Vương Trụ. Từ nhỏ 2 đứa chơi đùa với nhau rất thân, Trương thường nói đùa khi lớn lên sẽ cho 2 đứa làm vợ chồng. Cả 2 đều tưởng thật. Về sau, Trương muốn gả con cho người khác. Vương Trụ buồn rầu bèn từ giã cậu mà đi, nói dối là lên kinh đô. Nửa đêm đang nằm trên thuyền bỗng nghe tiếng chân chạy tới, nhìn xem thì là Thiến Nữ. Mừng tủi lẫn lộn, cả 2 cùng đào tẩu. Hai người sống chung ở đất Thục 5 năm, sinh được 2 đứa con. Thiến Nữ nhớ nhà bèn cùng chồng trở lại Hoành Châu. Trụ về nhà trước để tạ tội. Giật kinh ngạc Trương nói cho Trụ biết Thiến Nữ từ khi Trụ bỏ đi thì bị bệnh hôn mê chưa hề rời khỏi khuê phòng. Khi Thiến Nữ từ thuyền trở về nhà, Thiến Nữ bị bệnh choàng dậy ra đón. Hai người ôm choàng lấy nhau hòa thành một. Phật giáo không chấp nhận có một linh hồn bất biến. Tất cả đều biến đổi trong tiến trình từ nhân đến quả.
(Thánh Tham)

-Hai cô Thiến Nữ (một bị bệnh, một theo Vương Trụ) tượng trưng cho Dụng của tự tánh trước và sau khi giác ngộ. Lúc chưa ngộ đói ăn, mệt ngủ, gánh nước, bổ củi nhưng không làm chủ được mình, là nô lệ cho dục vọng. Khi ngộ rồi cũng đói ăn, mệt ngủ, gánh nước, bổ củi nhưng làm chủ được mình, không làm nô lệ cho dục vọngNgũ tổ dẫn chuyện trên để đề tỉnh đại chúng phải quay về với chính mình, nỗ lực minh tâm kiến tánh, lúc đó đối với sinh tử tự dotự tại đến đi, không cần biết cô Thiến Nữ nào là thật, vả lại trong truyện kể cũng không xác minh cô nào là thật.
Đại Hàm nói :
初 三 初 四 月 曚 曨
Sơ tam sơ tứ nguyệt mông lung
不 似 金 鉤 不 似 弓
Bất tự kim câu bất tự cung
誰 把 玉 環 敲 兩 段
Thủy bả ngọc hoàn xao lưỡng đoạn
半 沈 滄 海 半 懸 空
Bán trầm thương hải bán huyền không.

Mồng ba, mồng bốn trăng mông lung
Chẳng giống móc vàng, chẳng giống cung
Ai đem mảnh ngọc chia hai mảnh
Nửa chìm đáy biển, nửa treo không.

-Giải thích bài kệ :
Câu 1 : khe và núi đều cùng một giải đất, nhưng cái này là núi, cái kia là khe.
Câu 2 : trăng tỏ, trăng mờ (bị mây che), trăng tròn, trăng khuyết đều vẫn là một trăng
Câu 3 : tất cả đều bình thường.
Câu 4 : chúng là một, chúng cũng là 2
-Mồng ba, mồng bốn trăng mông lung : chỉ lúc chưa kiến tánhSắc thân và tự tánh vốn là Thể, không thể phân ra. Ai đã phân ra như chia vòng ngọc một nửa để dưới biển, một nửa treo trên không ? (tỷ dụ chưa kiến tánh, thấy tự tánh xa vời không đạt được)
(Dương Tân Anh)

-Khi một người giác ngộ, ông vượt lên khỏi thế giới nhị nguyên và hiểu được chân lý của vạn phápChân lý không thể phân hai. Thực tại và ảo tưởng chỉ là tương đối. Không có cái được gọi là Thực tại của ảo tưởng. Cái mới chỉ có đối với cái cũ, Đông với Tây, thị và phi. Sống và chết chỉ là hai giai đoạn của một tiến trình. Hãy hưởng thụ mùa Xuânmùa Hạ, cũng hưởng thụ mùa Thumùa ĐôngChân lý là một, chân lý cũng là nhiều.
(Kubose)

-Ngũ tổ Diễn xuất gia năm 35 tuổi, mới đầu học kinh điển, nhưng tâm chẳng an. Ông bèn đi tham học các thiền sư. Một hôm nghe Bạch Vân giảng cho một ông tăng về công án “Không” của Triệu Châu, ông hoảng nhiên đại ngộ. Ông bèn làm bài kệ :
山 前 一 片 閒 田 地
Sơn tiền nhất phiến nhàn điền địa
叉 手 叮 嚀 問 組 翁
Thoa thủ đinh ninh vấn Tổ ông
幾 度 賣 來 還 似 買
Cơ độ mại lai hoàn tự mãi
為 憐 松 竹 引 清 風
Vi lân tùng trúc dẫn thanh phong.

Trước núi một mảnh ruộng bỏ hoang
Khoanh tay tha thiết hỏi Tổ ông
Mấy lần bán đi rồi mua lại ?
Vì thương gió mát luồn rặng thông.

-Mảnh ruộng ở đây là chỉ tâm (tâm điền)
-Mấy lần bán đi rồi mua lại : ông khảo sát tâm đủ mọi phương diện : chủ quan, khách quan.
 (Sekida)

Tắc Ba Mươi Sáu
TRÊN ĐƯỜNG GẬP NGƯỜI ĐẠT ĐẠO

Cử :
Ngũ tổ Diễn nói :
-Trên đường gập người đạt Đạo, nói, hay im thử hỏi phải làm sao ?

Bình :
Nếu các ông biết chuyện này lại chẳng vui sao ? Nếu chưa thì đối mọi sự phải cẩn thận.

Tụng :

路 逢 達 道 人
Lộ phùng đạt đạo nhân
不 將 語 默 對
Bất tương ngữ mặc đối
攔 腮 劈 面 拳
Lan tai phách diện quyền
直 下 會 便 會
Trực hạ hội tiện hội.

Gập được người đạt Đạo
Chẳng nói cũng chẳng im
Một đấm thoi ngay mặt
Lập tức hiểu ra liền.

Chú Thích :
Giải thích bài kệ :
Câu 1 : đó chính là các ông chứ không phải là ai khác.
Câu 2 : chẳng ai hạn chế các ông ngoài các ông
Câu 3 và 4 : hãy hiểu một cách trực tiếp đừng vòng vo.

-Đạo là đạo, nếu đã đạt Đạo thì không chỗ nào không là Đạo, không cần phải hỏi Đạo.
(Thánh Tham)
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
13/11/2021(Xem: 10673)
“Bát Thánh Đạo” là phương pháp tu hành chơn chánh cao thượng đúng theo qui tắc Phật giáo mà đức Thế Tôn đã có lời ngợi khen là quí trọng hơn tất cả con đường tu hành, là con đường không thẳng cũng không dùn, không tham vui cũng không khắc khổ, vừa thành tựu các điều lợi ích đầy đủ đến hành giả, hiệp theo trình độ của mọi người. Cho nên cũng gọi là “TRUNG ĐẠO” (Majjhimapaṭipadā) là con đường giữa. Ví như đàn mà người lên dây vừa thẳng, khải nghe tiếng thanh tao, làm cho thính giả nghe đều thỏa thích. Vì thế, khi hành giả đã thực hành đầy đủ theo “pháp trung đạo” thì sẽ đạt đến bậc tối thượng hoặc chứng đạo quả trong Phật pháp không sai. Nếu duyên phần chưa đến kỳ, cũng được điều lợi ích là sự yên vui xác thật trong thân tâm, từ kiếp hiện tại và kết được duyên lành trong các kiếp vị lai. Tôi soạn, dịch pháp “Bát Thánh Đạo” này để giúp ích cho hàng Phật tử nương nhờ trau dồi trí nhớ và sự biết mình. Những hành giả đã có lòng chán nản trong sự luân hồi, muốn dứt trừ phiền não, để
08/11/2021(Xem: 11817)
Đây chỉ là chiếc thuyền nan, chưa tới bờ bên kia, vẫn còn đầy ảo tưởng chèo ra biển cả. Thân con kiến, chưa gột sạch đất cát, bò dưới chân Hy Mã Lạp Sơn, nghe tiếng vỗ của một bàn tay trên đỉnh cao. Chúng sinh mù, nếm nước biển, ngỡ bát canh riêu cá, Thế gian cháy, mải vui chơi, quên cảnh trí đại viên. Nắm vạt áo vàng tưởng như nắm lấy diệu quang, bay lên muôn cõi, theo tiếng nhạc Càn Thát Bà réo gọi về Tịnh Độ, ngửi mùi trầm Hương Tích, an thần phóng thoát. Con bướm mơ trăng Cực Lạc, con cá ngụp lặn dưới nước đuôi vàng như áo cà sa quẫy trong bể khổ, chờ thiên thủ thiên nhãn nghe tiếng sóng trầm luân vớt lên cõi Thanh văn Duyên giác. Những trang sách còn sở tri chướng của kẻ sĩ loanh quanh thềm chùa Tiêu Sơn tìm bóng Vạn Hạnh, mơ tiên Long Giáng lào xào bàn tay chú tiểu Lan trên đồi sắn.
07/11/2021(Xem: 12310)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 15184)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3518)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4242)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16920)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12697)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7911)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 20340)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567