Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Cơ học Lượng tử Xuất phát từ Triết học Phật giáo?

07/12/202122:49(Xem: 4294)
Cơ học Lượng tử Xuất phát từ Triết học Phật giáo?

buddha

Cơ học Lượng tử Xuất phát từ Triết học Phật giáo?
(Does quantum mechanics favor Buddhist philosophy?)

Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau.

 

* Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.

 

Cuốn sách đầu tiên tôi đọc về Cơ học Lượng tử không phải là sách giáo khoa. Thay vào đó là tác phẩm "Đạo của Vật lý" (The Tao of Physics, 物理學之道) của tác giả Fritjof Capra, được xuất bản lần đầu năm 1974. Kể từ đó đến nay, khoảng trên một triệu cuốn sách này đã đến tay độc giả với trên mười thứ tiếng khác nhau. Một cuốn sách bán chạy nhất vào những thập niên 1975, tuyên bố rằng những khám phá trong Cơ học Lượng tử đã có sự hỗ tương cho nhau giữa Thế giới quan Phật giáo cổ đại. Tôi đọc tác phẩm "Đạo của Vật lý" được xuất bản lần thứ nhất; và trong đó, tác giả Fritjof Capra, vị giáo sư ngành vật lý tại các đại học và các viện nghiên cứu tiếng tăm tại Mỹ và Anh đã đưa ra những miêu tả tuyệt đẹp về cả Khoa học Lượng tử và Triết học Phật giáo.

 

Tôi đã phải trả giá từng . . . từng phần riêng biệt.

 

Bốn mươi năm sau, tôi vừa là một hành giả Phật giáo (đặc biệt thực nghiệm thiền định) vừa là một nhà vật lý với niềm quan tâm sâu sắc đến các cơ sở lượng tử. Nhưng tôi chưa bao giờ tin vào tuyên bố rằng những khám phá trong Cơ học Lượng tử đã có sự hỗ tương cho nhau giữa Thế giới quan Phật giáo cổ đại, và hôm nay tôi muốn suy ngẫm về mối liên kết sai lầm đó, có lẽ là một cách tốt hơn để tư duy giữa Phật giáo và Vật lý.

 

Phật giáo có thuận theo tự nhiên từ Cơ học Lượng tử không?

 

Cuốn sách của tác giả Fritjof Capra, vị giáo sư ngành vật lý tại các đại học và các viện nghiên cứu tiếng tăm tại Mỹ và Anh là một phần của làn sóng quan tâm đến cái gọi là "triết học phương Đông" và khoa học vật lý lượng tử. Ngoài ra, còn có tác phẩm "Điệu Vũ Của Các Thầy Vật-Lý" (The Dancing of Wu-Li Masters) của Tiểu thuyết gia Gary Zukav. Chẳng bao lâu nó đã trở thành một yếu tố chính của Mumbo-Jumbo thời đại mới để gắn "Lượng tử" trước bất cứ thứ gì đang được tung ra: Chữa bệnh lượng tử, Tâm linh lượng tử, làm sạch ruột kết lượng tử. Trong khi đầu tiên sự thúc đẩy của Giáo sư Vật lý Fritjof Capra và Tiểu thuyết gia Gary Zukav đều thực sự thể hiện sự quan tâm đến việc làm thế nào những điều kỳ lạ nổi tiếng của Cơ học Lượng tử phủ lên lãnh thổ mới (đối với những sinh viên phương Tây này) của triết học Phật giáo, mọi thứ nhanh chóng vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Ví như vụ nghiêm trọng nhất về vòng xoáy đi xuống là Quyền Năng Vô Hạn (What the BLEEP Do We Know 2004). Đây là một bộ phim kết hợp phỏng vấn theo phong cách tài liệu, hoạt hình đồ họa máy tính, và một câu chuyện thừa nhận sự kết nối tâm linh giữa vật lý lượng tử và ý thức.

 

Đầu tiên phát hành tại các rạp vào năm 2004, What the BLEEP Do We Know đã trở thành một trong những bộ phim tài liệu thành công nhất mọi thời đại. Bây giờ phân phối tại hơn 30 quốc gia, nó đã thu phục được khán giả với sự pha trộn của 1 bộ phim đầy kịch tính, tài liệu, hoạt hình, và phim hài, trong khi pha trộn các kiến thức về vật lý lượng tử, tâm linh, thần kinh học và tư tưởng tiến hóa. Thực sự điều đó đầy vô nghĩa đến nỗi tôi ném hộp bắp rang của mình vào màn hình trong khi xem.

 

Như vậy, vấn đề mà chúng ta có thể gọi là "Phật giáo lượng tử" là gì?

 

Hãy bắt đầu của mọi thứ khía cạnh vật lý. Vật lý lượng tử là lý thuyết xử lý những thứ rất nhỏ như nguyên tử, proton và quark. Thực sự kỳ lạ bởi vật lý ở quy mô cực nhỏ này mà chúng ta đã học ở quy mô con người hơn. Điều kỳ lạ quan trọng nhất đối với quan hệ Phật giáo là "Vấn đề đo lường". Giống như cơ học cổ điển được điều chỉnh bởi các phương trình Newton, Cơ học Lượng tử có các phương trình Schrodinger miêu tả cách hệ thống lượng tử phát triển. Nhưng đây là phần kỳ lạ: Sau khi hệ thống được quan sát, các phương trình Schrodinger không còn được áp dụng nữa. Phép đo lường được ưu tiên hơn phương trình. Tại sao một hệ thống vật lý cần quan tâm đến việc nó được quan sát? Không ai biết, và mọi người đã tranh cải về "Vấn đề đo lường" kể từ khi Cơ học Lượng tử lần đầu tiên được hình thành.

 

Những lập luận nêu trên đã được kết tinh thành danh từ Diễn giải lượng tử. Mặc dù các nhà vật lý biết chính xác cách áp dụng các quy tắc của Cơ học Lượng tử để thiết kế những thứ như la-de và máy tính, nhưng họ không đồng ý về ý nghĩa của các phương trình theo nghĩa triết học. Họ không biết cách diễn giải chúng.

 

Đây là nơi mà Phật giáo xuất hiện. Có một cách Diễn giải về Cơ học Lượng tử rất phù hợp với các quan điểm triết học Phật giáo. Giáo sư Vật lý Fritjof Capra và những người khác lưu ý rằng, cách giải thích Copenhagen, được phát triển bởi nhiều nhà sáng lập khoa học nguyên tử, đã coi Cơ học Lượng tử mang lại cho chúng ta một cái gì đó khác với bức tranh khách quan về nguyên tử như những quả bóng nhỏ tồn tại trong chính chúng. Thay vào đó, Cơ học Lượng tử thể hiện một kiểu vướng mắc giữa của người quan sát và người bị quan sát. Đối với những người theo cách giải thích Copenhagen, Cơ học Lượng tử là Nhận thức luận hơn là Bản thể học. Đây là việc khám phá kiến thức về cách thế giới hoạt động thay vì cố gắng xác định một quan điểm "đúng". Nói cách khác, cách giải thích Copenhagen cho rằng, không có cái nhìn Thiên nhãn hoàn toàn khách quan về vũ trụ.

 

Hoặc ít nhất, Phật giáo là phiên bản của họ được biết đến nhiều ở phương Tây, cũng tập trung vào Nhận thức luận và tách rời ý tưởng về một quan điểm hoàn toàn khách quan về kinh nghiệm. Đối với nhiều vị triết gia Phật học, thế giới và trải nghiệm của chúng ta về nó là không thể tách rời (ít nhất là theo miêu tả và diễn giải). Không có thuộc tính thiết yếu, siêu việt thời gian, và mọi thứ phát sinh phụ thuộc lẫn nhau.

 

Tại sao Phật giáo Cơ học Lượng tử không hoạt động?

 

Vậy là vấn đề là liên kết Cơ học Lượng tử và quan điểm Phật giáo này là gì? Vấn đề không phải là ở khía cạnh Phật giáo. Phật giáo đã tồn tại gần 26 thế kỷ, và tự nó đã duy trì và phát triển hoàn hảo. Bạn có thể chọn tham gia với đạo Phật như một triết lý hoặc một thực hành nếu cảm thấy phù hợp với bạn. Nếu không, điều đó vẫn tốt. Nhưng chắc chắn Phật giáo không cần vật lý hỗ tương.

 

Thay vào đó, vấn đề là chỉ ra cách giải thích Copenhagen của Cơ học Lượng tử và tuyên bố, "Đây là những gì Vật lý học thuyết minh". Có một danh mục dài các cách diễn giải của Cơ học Lượng tử: giải thích nhiều về thế giới, trong vật lý lý thuyết, các thí điểm lý thuyết sóng, lý thuyết thiết lập mục tiêu, quan hệ cơ học lượng tử và quy tắc Bayes lượng tử (my current favorite). Một trong những số này sẽ không phát hiện bất kỳ điểm tương đồng nào với triết học Phật giáo. Dựa trên thực tế, những người đồng thuận bởi cách cách giải thích khác này sẽ có lý do chính đáng để đối đầu với những tuyên bố của Phật giáo về mối quan hệ giữa tri thức và thế giới. Quan trọng nhất, cho đến khi một phương pháp thử nghiệm để phân biệt giữa các cách diễn giải, thực sự không ai biết cách giải thích thế nào cho chính xác.

 

Vì vậy, sai lầm cơ bản của Phật giáo Lượng tử là thành kiến. Những người đồng thuận nó ưu tiên một cách diễn giải Cơ học Lượng tử hơn tất cả những cách khác bởi họ yêu thích. Bởi họ yêu mến thích Phật giáo. Bản thân tôi cũng kính quý đạo Phật (tôi đã trong im lặng và nhìn vào bức tường với thời gian ba thập kỷ), nhưng điều này không có nghĩa là tôi cho rằng "hiển thị" Cơ học Lượng tử là sự thật.

 

Đối thoại giữa Phật giáo và Vật lý học

 

Liệu rằng có một mối quan hệ, một cuộc đối thoại giữa Phật và Vật lý học không? Điều này hoàn toàn có thể, và đây là dịp tôi nghĩ rằng có những lộ trình mới đang mở ra. Vật lý, cho dù chúng ta có biết về nó hay không, đã bão hòa với các ý tưởng, khái niệm và thể hiện sự kế thừa từ các truyền thống triết học bắt đầu từ người Hy Lạp.  Sau đó, những thứ này được trộn lẫn với các truyền thống của người (Do Thái giáo, Cơ Đốc giáo và Hồi giáo, Abraham) và kế đến được định hình bởi thời kỳ Phục hưng. Truyền thống triết học cổ đại trong vật lý này tạo thành một cuộc đối thoại liên tục về bản chất của nguyên nhân và kết quả. bản sắc và sự chuyển biến bởi thời gian và không gian. Khi các nhà vật lý học làm việc tại cơ sở thuộc các lãnh vực của họ đã cố gắng tưởng tượng ra những con đường mới và sẽ rút ra một cách tự nhiên từ truyền thống này rằng nó có thể là một cách có ý thức hoặc vô ý thức.

 

Những gì triết học cổ điển của Ấn Độ và châu Á (một thuật ngữ tốt hơn nhiều so với "Triết học phương Đông") đưa ra là một mối quan hệ đối tác mới đang được thảo luận. Các cuộc thảo luận về triết học trong thế giới Phật giáo đã xảy ra hàng thiên niên kỷ, đã đặt ra những câu hỏi tương tự như những câu thắc mắc xảy ra ở Địa Trung Hải, Trung Đông và Châu Âu. Nhưng cuộc đối thoại giữa những Phật tử có một loạt các mối quan tâm, và trọng điểm rất khác nhau. Bằng cách này, có lẽ sự tương tác giữa vật lý học và quan điểm Phật giáo có thể đưa ra một loạt ý tưởng, và quan điểm cần khảo sát khi tư duy về các vấn đề cơ bản trong vật lý học.


Barry Kerzin
Thượng Tọa Barry Kerzin tham gia nghiên cứu thiền định.



 

Thực sự, những đối thoại như thế này tôi rất hào hứng bởi lẽ không phải là vấn đề đưa cả hai lại gần nhau để "chứng minh một điều là đúng", mà thay vào đó, đây là việc mở rộng các khả năng khi tư duy về thế giới mà trong đó có vị trí của chúng ta. Vào các ngày 16-18 tháng 4 năm 2021, tôi sẽ tham gia một hội thảo khoa học ở Berkeler, tiểu bang California, Hoa Kỳ với chủ đề "Buddhism, Physics, and Philosophy Redux" (Triết học Phật giáo, Vật lý học và Redux). Được tổ chức bởi Cư sĩ Robert Sharf, giáo sư nghiên cứu Phật giáo thuộc khoa Văn hóa và Ngôn ngữ Đông phương thuộc trường đại học Berkeley, Hoa Kỳ, đây sẽ hứa hẹn một Niềm vui lớn!

 

Hội thảo khoa học ở Berkeler, tiểu bang California, Hoa Kỳ với chủ đề "Triết học Phật giáo, Vật lý học và Redux" (Buddhism, Physics, and Philosophy Redux), được diễn ra các ngày 16-18 tháng 4 năm 2021 tại, Hoa Kỳ:

 

Vào đầu thế kỷ 20, khi xuất hiện các vấn đề triết học cùng với sự ra đời của Cơ học Lượng tử vẫn còn rất nhiều với chúng ta. Như các Vấn đề đo lường, sự vướng mắc và tính bất định vị, Lưỡng tính sóng–hạt, v.v., buộc chúng ta phải đặt câu hỏi: các công việc của QM có đề cập đến một thế giới thực, độc lập với tâm trí hay chỉ là một phương tiện dự đoán những gì xuất hiện khi chúng ta đi tìm? Các khái niệm như "Hàm sóng", "Hạt giống", "Môi trường", "Thời gian", v.v., đều có quy chiếu những thứ tồn tại trong và của bản thân chúng, hay chúng chỉ là những cấu trúc trên danh nghĩa hoặc thực dụng? Trong thế kỷ qua, nhiều người đã viết về những câu hỏi này, nhưng vẫn chưa có gì giống như sự đồng thuận về các vấn đề.

 

Thật kỳ lạ, từ nhiều thế kỷ trước, câu hỏi triết học tương tự đã được xuất hiện trong tư tưởng Phật học, khi các nhà triết học Phật giáo đấu tranh để làm sáng tỏ mối quan hệ giữa cách thế giới quan xuất hiện như thế nào, cũng như thực trạng của các lý thuyết của chúng ta về thực tại khi phân tích. Ví dụ, các triết lý đạo Phật về “thuyết duyên khởi” (pratītyasamutpāda, (tiếng Phạn: प्रतीत्यसमुत्पाद; tiếng Nam Phạn: पटिच्चसमुप्पाद) và "cấu tạo sai biệt" (vikalpa) nêu lên các vấn đề có cấu trúc tương tự với các vấn đề đặt ra bởi Vấn đề đo lường và sóng Lưỡng tính sóng hạt, cách tiếp cận Con đường Trung đạo của Phật giáo song song đối với các vấn đề, ở nhiều khía cạnh, sự cạnh tranh các các công việc của QM.


Những nổ lực đầu tiên vào những thập niên 1970 là để bắt đầu một cuộc đối thoại giữa Phật giáo và Vật lý lý thuyết, dù rằng thời điểm lúc bấy giờ đã bị chỉ trích rất nhiều. Vấn đề là một phần những người tham gia vào những cuộc đối thoại ban đầu, dù am hiểu về các công việc của QM nhưng thường thiếu sự đánh giá tinh tế về triết học Châu Á và Phật giáo.

 

Hội thảo Khoa học này đã quy tụ một nhóm nhỏ các nhà Vật lý học, triết gia và học giả Phật giáo để xem liệu việc khởi động lại cuộc đối thoại có khả thi và hiệu quả hay không.

 

Thích Vân Phong biên dịch

(Nguồn: Big Think)


***
facebook
youtube
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/09/2021(Xem: 14556)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3371)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4095)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 15896)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12204)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7555)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19412)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11343)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 8855)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
23/03/2020(Xem: 9975)
Có một con sư tử mẹ đang đi kiếm ăn. Nó sắp làm mẹ. Buổi sáng đó nó chạy đuổi theo một chú nai. Chú nai con chạy thật nhanh dù sức yếu. Sư tử mẹ dầu mạnh, nhưng đang mang thai, nên khá chậm chạp. Sư tử mẹ chạy sau chú nai con rất lâu, khoảng 15 phút, mà vẫn chưa bắt kịp. Sau đó chúng tới một rãnh sâu. Chú nai lẹ làng nhảy qua rãnh, sang bờ bên kia. Sư tử mẹ rất bực tức vì không bắt kịp con mồi, và vì nó đang cần thức ăn cho cả nó và đứa con trong bụng. Vì thế, nó cố hết sức để nhảy qua cái rãnh sâu. Nhưng tai họa đã xảy ra, sư tử mẹ đã sẩy đứa con khi cố nhảy qua rãnh. Dầu qua được bờ bên kia, nhưng sư tử mẹ biết rằng mình đã đánh mất đứa con mà nó đã chờ đợi từ bao lâu, đã yêu thương hết lòng, chỉ vì một phút vô tâm của mình. Nó đã quên rằng nó đang mang một bào thai trong bụng, và nó cần phải hết sức cẩn trọng. Chỉ một phút lơ đễnh, nó đã không giữ được đứa con của mình.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567