Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi

01/07/201100:59(Xem: 3455)
23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những Câu Hỏi

Người hỏi: Chức năng của cái trí là suy nghĩ. Tôi đã trải qua nhiều năm suy nghĩ về những sự việc mà tất cả chúng ta biết – kinh doanh, khoa học, triết lý, tâm lý, nghệ thuật và vân vân – và bây giờ tôi suy nghĩ nhiều về Thượng đế. Từ việc tìm hiểu những biến cố của nhiều điều huyền bí và những tác giả tôn giáo khác, tôi được thuyết phục rằng Thượng đế tồn tại, và tôi có thể đóng góp những suy nghĩ riêng của tôi về chủ đề này. Có gì sai trái với việc này? Suy nghĩ về Thượng đế không giúp đỡ tạo ra nhận biết về Thượng đế hay sao?

Krishnamurti: Bạn có thể suy nghĩ về Thượng đế à? Bạn có thể được thuyết phục về sự tồn tại của Thượng đế bởi vì bạn đã đọc được tất cả những chứng cớ hay sao? Những người vô thần cũng có chứng cớ của anh ấy; anh ấy có thể đã nghiên cứu nhiều như bạn, và anh ấy nói rằng không có Thượng đế. Bạn tin rằng có Thượng đế và anh ấy tin rằng không có; cả hai đều có những niềm tin, cả hai bạn đều mất nhiều thời gian của các bạn để suy nghĩ về Thượng đế. Nhưng trước khi bạn suy nghĩ về điều gì đó mà bạn không biết, bạn phải tìm ra suy nghĩ là gì, phải vậy không? Làm thế nào bạn có thể suy nghĩ một điều gì đó mà bạn không biết? Bạn có lẽ đã đọc kinh Bible, kinh Bhagavad Gita, hay những quyển sách khác mà trong đó vô số những học giả uyên bác đã diễn giải khéo léo Thượng đế là gì, khẳng định điều này và phủ nhận điều kia, nhưng chừng nào bạn còn không biết qui trình suy nghĩ riêng của bạn, điều gì bạn suy nghĩ về Thượng đế có lẽ là xuẩn ngốc và nhỏ nhoi, và thông thường nó đều như vậy. Bạn có lẽ sưu tập nhiều chứng cớ cho sự tồn tại của Thượng đế và viết rất nhiều bài văn hay ho về nó, nhưng chắc chắn câu hỏi đầu tiên là, làm thế nào bạn biết được điều gì bạn suy nghĩ là sự thật? Suy nghĩ có khi nào tạo ra trải nghiệm về cái không thể biết được hay sao? Mà không có nghĩa rằng bạn phải chấp nhận một cách cảm xúc, một cách cảm tính, một cảm nghĩ vô ích nào đó về Thượng đế.

Vì vậy rất quan trọng phải tìm ra liệu cái trí của bạn có bị quy định hay không, hơn là tìm kiếm cái không bị quy định? Chắc chắn nếu cái trí của bạn bị quy định, mà nó là như vậy dù nó có tìm hiểu sự thật về Thượng đế nhiều bao nhiêu, nó chỉ có thể thâu lượm hiểu biết hay thông tin tùy theo tình trạng bị quy định của nó. Vì vậy suy nghĩ của bạn về Thượng đế là một lãng phí hoàn toàn của thời gian, nó là một phỏng đoán mà không có giá trị nào cả. Giống như tôi đang ngồi trong cánh rừng nhỏ này và ao ước được ở trên đỉnh núi kia (trong nền tảng quá khứ). Nếu tôi thực sự muốn tìm ra có cái gì trên đỉnh núi và vượt khỏi nó, tôi phải đi tới nó. Không tốt lành gì cả khi ngồi ở đây phỏng đoán, dựng lên những đền chùa, những nhà thờ, và hưng phấn về chúng. Điều gì tôi phải làm là đứng dậy, đi, đấu tranh, thúc đẩy, đến đó, và tìm ra; nhưng bởi vì hầu hết chúng ta đều không sẵn lòng làm việc đó, chúng ta hài lòng với việc ngồi ở đây và phỏng đoán về cái gì đó mà chúng ta không biết. Và tôi nói rằng sự phỏng đoán như thế là một cản trở, nó là một thoái hóa của cái trí, nó không có giá trị gì cả; nó chỉ mang lại nhiều hoang mang hơn, nhiều đau khổ hơn cho con người.

Thượng đế là điều gì đó không thể nói được, không thể diễn tả được, không thể đặt vào những từ ngữ, bởi vì nó phải luôn luôn ở cùng cái không biết được. Khoảnh khắc qui trình công nhận xảy ra, bạn quay lại trong lãnh vực của ký ức. Bạn hiểu rõ không? Ví dụ như bạn có một trải nghiệm ngay tức khắc của một cái gì đó lạ thường. Tại ngay khoảnh khắc đó không có người suy nghĩ nói rằng, “Tôi phải nhớ nó.” Chỉ có trạng thái trải nghiệm. Nhưng khi khoảnh khắc đó qua rồi, qui trình công nhận hiện diện. Làm ơn hãy theo sát điều này. Cái trí nói rằng, “Tôi có một trải nghiệm tuyệt vời và tôi ước rằng tôi có thể hưởng được nó nhiều hơn nữa”, vì vậy sự đấu tranh cho nhiều hơn bắt đầu. Bản năng thâu lợi, sự theo đuổi chiếm hữu của nhiều hơn, hiện diện vì những lý do khác nhau: bởi vì nó cho bạn vui thú, thanh danh, hiểu biết, bạn trở thành một uy quyền, và mọi chuyện vô nghĩa đó.

Cái trí theo đuổi cái đó mà nó đã trải nghiệm, nhưng cái đó mà nó đã trải nghiệm đã hết rồi, chết rồi, qua rồi. Muốn khám phá cái là, cái trí phải chết đi cái đó mà nó đã trải nghiệm. Đây không là cái gì đó, có thể được vun quén ngày sang ngày, có thể được thâu lượm, được tích lũy, được giữ chặt và rồi được nói và được viết về. Tất cả mọi việc mà chúng ta có thể làm là thấy rằng cái trí bị quy định và nhờ vào hiểu rõ về chính mình sẽ hiểu rõ qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta. Tôi phải hiểu rõ về chính tôi, không phải theo lý thuyết như tôi muốn là, nhưng như tôi thực sự là, dù xấu xa hay đẹp đẽ, dù ganh tị, ghen tuông, tham lợi. Nhưng rất khó khăn khi chỉ thấy người ta là gì mà không ao ước thay đổi nó, và chính ham muốn thay đổi đó là một hình thức khác của tình trạng bị quy định; và thế là chúng ta tiếp tục, chuyển động từ tình trạng bị quy định sang tình trạng bị quy định, không bao giờ trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi cái bị giới hạn.

Người hỏi: Tôi đã lắng nghe ông nhiều năm và tôi đã khá giỏi trong sự quan sát những tư tưởng riêng của tôi và tỉnh thức được mọi sự việc tôi làm, nhưng tôi chưa bao giờ chạm được những dòng nước thăm thẳm hay trải nghiệm được sự thay đổi mà ông nói. Tại sao vậy?

K: Tôi nghĩ khá rõ ràng rằng tại sao không một ai trong chúng ta trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi sự quan sát thuần túy. Có những khoảnh khắc hiếm hoi của một trạng thái cảm xúc mà trong đó chúng ta thấy, như nó đã là, sự rõ ràng của bầu trời giữa những đám mây, nhưng tôi không có ý nói bất kỳ điều gì thuộc loại đó. Tất cả những trải nghiệm như thế đều nhất thời và không có ý nghĩa bao nhiêu. Người hỏi muốn biết tại sao, sau nhiều năm quan sát này, anh ấy vẫn chưa tìm được những dòng nước sâu thẳm. Tại sao anh ấy phải tìm chúng? Bạn hiểu rõ không? Bạn nghĩ rằng bằng cách quan sát những suy nghĩ riêng của bạn bạn sẽ nhận được một phần thưởng; nếu bạn làm việc này, bạn sẽ nhận được cái khác lạ. Bạn thực sự không đang quan sát gì cả, bởi vì cái trí của bạn quan tâm đến kiếm được một phần thưởng. Bạn nghĩ rằng qua quan sát, qua tỉnh thức, bạn sẽ thương yêu nhiều hơn, bạn sẽ đau khổ ít hơn, bực dọc ít hơn, có cái gì đó vượt khỏi, vì vậy quan sát của bạn là một qui trình của mua bán. Với đồng xu này bạn đang mua cái khác lạ, mà có nghĩa rằng quan sát của bạn là một qui trình của chọn lựa; vì vậy nó không đang quan sát, nó không là chú ý. Quan sát là quan sát mà không có chọn lựa, thấy chính bạn như bạn là mà không có bất kỳ chuyển động của ham muốn để thay đổi, mà là một sự việc cực kỳ gian khổ khi thực hiện; nhưng điều đó không có nghĩa rằng bạn sẽ vẫn còn ở trong trạng thái hiện tại của bạn. Bạn không biết điều gì sẽ xảy ra nếu bạn thấy chính mình như bạn là mà không ao ước tạo ra một thay đổi trong điều bạn thấy. Bạn hiểu rõ không?

Tôi sẽ đưa ra một thí dụ và giải thích nó, và bạn sẽ thấy. Chúng ta hãy thí dụ là tôi bạo lực, như hầu hết mọi người đều như vậy. Toàn nền văn hóa của chúng ta là bạo lực – nhưng lúc này tôi sẽ không trình bày về cấu trúc của bạo lực bởi vì đó không là vấn đề chúng ta tìm hiểu. Tôi bạo lực và tôi nhận ra rằng tôi bạo lực. Chuyện gì xảy ra? Phản ứng ngay tức khắc của tôi là tôi phải làm một cái gì đó về nó, phải không? Tôi nói rằng tôi phải trở thành không bạo lực. Đó là điều gì mọi vị thầy đã bảo cho chúng ta trong hàng thế kỷ: nếu người ta bạo lực người ta phải trở thành không bạo lực. Vì vậy tôi luyện tập, tôi làm tất cả những sự việc thuộc học thuyết. Nhưng bây giờ tôi thấy điều đó xuẩn ngốc như thế nào bởi vì cái thực thể mà quan sát bạo lực, và ao ước thay đổi nó thành không bạo lực, vẫn còn là bạo lực. Vì vậy tôi quan tâm, không phải với sự diễn tả của thực thể đó, nhưng với chính thực thể. Tôi hy vọng bạn đang theo kịp tất cả điều này.

Bây giờ thực thể đó mà nói rằng, “Tôi phải không bạo lực” là gì? Thực thể đó có khác biệt bạo lực mà anh ấy quan sát hay không? Chúng có là hai trạng thái khác biệt hay không? Bạn hiểu rõ chứ, thưa các bạn, hay điều này quá trừu tượng? Chắc chắn bạo lực và thực thể mà nói rằng, “Tôi phải thay đổi bạo lực thành không bạo lực” cả hai đều là một. Công nhận sự kiện đó là kết thúc mọi xung đột, phải vậy không? Không còn xung đột của cố gắng để thay đổi, bởi vì tôi thấy rằng chính chuyển động của cái trí không bạo lực là chính kết quả của bạo lực.
Người hỏi muốn biết tại sao anh ấy không thể vượt khỏi tất cả những tranh cãi hời hợt này của cái trí. Bởi vì lý do rất đơn giản rằng, có ý thức hay không ý thức, cái trí đang luôn luôn tìm kiếm cái gì đó, và chính tìm kiếm đó mang lại bạo lực, ganh đua, ý thức của bất mãn hoàn toàn. Chỉ khi nào cái trí hoàn toàn tĩnh lặng mới có khả năng tiếp xúc được những dòng nước thăm thẳm.

Người hỏi: Khi chúng ta chết, chúng ta có được sinh lại trên quả đất này, hay chúng ta chuyển vào thế giới nào khác?

K: Câu hỏi này gây hứng thú cho tất cả chúng ta, người trẻ lẫn người già, phải vậy không? Vì vậy tôi sẽ tìm hiểu nó sâu sắc, và tôi hy vọng bạn sẽ đủ tỉnh táo để theo sát, không phải chỉ những từ ngữ, nhưng trải nghiệm thực sự của điều gì tôi sẽ thảo luận cùng bạn.

Tất cả chúng ta đều biết rằng chết tồn tại, đặc biệt những người già hơn, và cũng vậy những người trẻ mà quan sát nó. Người ta nói, “Hãy chờ cho đến khi nó đến và chúng ta sẽ xử lý nó.” Và những người già, mà gần cái chết hơn, đã lặp lại những hình thức khác nhau của an ủi.

Làm ơn theo sát và áp dụng việc này cho chính các bạn, đừng đặt nó vào một người nào khác. Bởi vì bạn biết rằng bạn sẽ chết; bạn có những lý thuyết về nó, phải không? Bạn tin Thượng đế. Bạn tin sống lại hay nghiệp lực và luân hồi. Bạn nói rằng bạn sẽ sinh lại ở đây hay trong một thế giới khác. Hay bạn lý luận về chết, nói rằng chết là điều không tránh khỏi, nó xảy ra cho mọi người; cái cây héo tàn đi, nuôi dưỡng đất đai, và một cây mới mọc lên. Hay khác hẳn bạn quá bận rộn với những lo âu, những buồn phiền, những ganh tị, những ghen tuông hàng ngày của bạn, với những ganh đua của bạn và giàu sang của bạn, nên không suy nghĩ về chết gì cả. Nhưng nó ở trong cái trí của bạn; có ý thức hay không ý thức nó ở đó.

Trước hết, liệu bạn có được tự do khỏi những niềm tin, những lý lẽ hay những dửng dưng mà bạn đã nuôi dưỡng về chết hay không? Liệu bạn có thể được tự do khỏi tất cả việc đó ngay lúc này? Bởi vì điều gì quan trọng là thâm nhập vào ngôi nhà của chết trong khi đang sống, trong khi còn ý thức, năng động, còn sức khỏe, và không phải chờ đợi sự đến gần của cái chết, mà có thể mang bạn đi ngay tức khắc qua một tai nạn, hay qua một bệnh tật mà từ từ làm cho bạn không còn ý thức. Khi chết đến nó phải là một khoảnh khắc lạ thường mà sinh động như đang sống.

Bây giờ, liệu rằng tôi, liệu rằng bạn có thể, thâm nhập vào căn nhà của chết trong khi đang sống hay không? Đó là vấn đề, không phải liệu có luân hồi, hay liệu có một thế giới khác nơi bạn sẽ sinh lại, mà cũng là quá không chín chắn, quá trẻ con. Một con người sống không bao giờ hỏi sống là gì và anh ấy không có những lý thuyết về sống. Chỉ có những con người dật dờ mới nói về mục đích của sống.

Vì vậy liệu bạn và tôi, trong khi sống, có ý thức, năng động, kèm theo tất cả những khả năng của chúng ta dù chúng có lẽ là gì chăng nữa, biết chết là gì được không? Vậy thì chết có khác sống hay không? Đối với hầu hết chúng ta, sống là một tiếp tục của cái đó mà chúng ta nghĩ là vĩnh cửu. Tên tuổi của chúng ta, gia đình của chúng ta, tài sản của chúng ta, những sự việc chúng ta quan tâm thuộc kinh tế, tinh thần, những đạo đức chúng ta đã vun quén, những sự việc chúng ta đã thâu lượm một cách cảm xúc; tất cả việc đó chúng ta muốn tiếp tục. Và khoảnh khắc chúng ta gọi là chết là một khoảnh khắc của cái không biết được. Vì vậy chúng ta bị kinh hãi, vì vậy chúng ta cố gắng tìm ra một an ủi, một loại thanh thản nào đó; chúng ta muốn biết liệu có một cuộc sống sau chết, và hàng tá sự việc khác. Những điều đó là những vấn đề không liên quan; chúng là những vấn đề dành cho những người lười biếng, cho những người không muốn tìm ra chết là gì trong khi đang sống. Vì vậy liệu bạn và tôi có thể tìm ra?

Chết là gì? Chắc chắn nó là sự kết thúc hoàn toàn của mọi thứ mà bạn đã biết. Nếu nó không là kết thúc của mọi thứ mà bạn đã biết, nó không là chết. Nếu bạn chết rồi vậy thì bạn không có gì phải sợ hãi. Nhưng bạn biết chết chưa? Đó là, liệu khi đang sống bạn có thể kết thúc sự tranh đấu mãi mãi này để tìm ra, trong cái không vĩnh cửu, cái gì đó sẽ tiếp tục. Liệu bạn có thể biết cái không thể biết được, trạng thái đó mà chúng ta gọi là chết, trong khi đang sống? Liệu bạn có thể gạt đi tất cả những diễn tả của việc gì xảy ra sau khi chết do bởi bạn đã đọc trong những quyển sách, hay do bởi sự ham muốn không ý thức của bạn để chiều theo những ra lệnh cho sự thanh thản, và thưởng thức hay trải nghiệm trạng thái đó – mà phải là lạ thường – ngay lúc này? Nếu trạng thái đó được trải nghiệm ngay lúc này, vậy thì sống và chết là một.

Vì vậy liệu tôi, người có giáo dục, hiểu biết rất nhiều, người có vô số những trải nghiệm, những đấu tranh, những tình yêu, những hận thù, có thể, liệu cái “tôi” đó có thể kết thúc? Cái “tôi” là ký ức được ghi lại của tất cả việc đó; và liệu cái “tôi” đó có thể kết thúc? Nếu không bị mang đến một kết thúc bởi một tai nạn, bởi một bệnh tật, liệu trong khi đang ngồi đây bạn và tôi có thể biết được kết thúc đó? Vậy thì bạn sẽ phát giác rằng bạn sẽ không còn hỏi những câu hỏi ngu xuẩn về chết và sự tiếp tục, hay liệu có một thế giới tiếp theo đây. Vậy thì bạn sẽ biết đáp án cho chính bạn bởi vì cái không thể biết được sẽ hiện diện. Vậy thì bạn sẽ gạt đi toàn huyên thuyên của sống lại, và nhiều sợ hãi – sợ hãi sống và sợ hãi chết, sợ hãi già nua và gieo khổ sở cho những người khác khi phải lo âu chăm sóc bạn, sợ hãi cô đơn và lệ thuộc – tất cả đều sẽ kết thúc. Đây không là những từ ngữ hão huyền. Chỉ khi nào cái trí kết thúc suy nghĩ dựa vào sự tiếp tục riêng của nó thì cái không thể biết được mới hiện hiện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
07/11/2021(Xem: 12100)
Kinh Vô Lượng Nghĩa nói “vô lượng pháp từ một pháp mà sinh ra”. Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí Giả (538-597), quyển 5, nói: “Phật bảo các Tỳ-kheo, một pháp thâu nhiếp tất cả pháp, chính là Tâm”. Phổ môn là vô lượng giáo pháp. Vô lượng giáo pháp này cũng từ một giáo pháp mà sinh ra. Một giáo pháp phổ cập tất cả gọi là phổ môn. Chư Phật thuyết giáo thuận theo Tâm của chúng sinh. Giáo là những ngôn từ được thuyết ra cho những chúng sinh chưa thấu suốt. Pháp là những phương thức với nhiều tướng trạng giống nhau hoặc khác nhau. Tâm ý chúng sinh có bao nhiêu ngõ ngách thì giáo pháp có chừng ấy quanh co. Chư Phật dùng muôn vàn phương tiện khế cơ mang lại lợi ích cho chúng sinh. Ngài Xá Lợi Phất từng nói: “Phật dùng nhiều thứ nhân duyên và thí dụ, phương tiện ngôn thuyết như biển rộng khiến tâm người trong pháp hội được yên ổn, con nghe pháp ấy khiến lưới nghi dứt” là nghĩa trên vậy.
05/09/2021(Xem: 14970)
Bắt đầu gặp nhau trong nhà Đạo, người quy-y và người hướng-dẫn biết hỏi và biết tặng món quà pháp-vị gì cho hợp? Thực vậy, kinh sách man-mác, giáo-lý cao-siêu, danh-từ khúc-mắc, nghi-thức tụng-niệm quá nhiều – nghiêng nặng về cầu-siêu, cầu-an – không biết xem gì, tụng gì và nhất là nhiều người không có hoàn-cảnh, thỉnh đủ. Giải-đáp thực-trạng phân-vân trên, giúp người Phật-tử hiểu qua những điểm chính trong giáo-lý, biết qua sự nghiệp người xưa, công việc hiện nay và biết đặt mình vào sự rèn-luyện thân-tâm trong khuôn-khổ giác-ngộ và xử-thế, tôi biên-soạn cuốn sách nhỏ này. Cuốn sách nhỏ này không có kỳ-vọng cao xa, nó chỉ ứng theo nhu-cầu cần-thiết, mong giúp một số vốn tối-thiểu cho người mới vào Đạo muốn tiến trên đường tu-học thực-sự. Viết tại Sài-thành mùa Đông năm Mậu-tuất (1958) Thích-Tâm-Châu
22/08/2021(Xem: 3458)
Đây là bài thứ 4 và cũng là bài sau cùng trích dẫn một số câu liên quan đến giáo lý của Đức Phật. Bài 4 này gồm tất cả 80 câu được chọn lọc từ một bài gồm 265 câu trên một trang mạng tiếng Pháp : https://www.evolution-101.com/citations-de-bouddha/. Các câu này chủ yếu được rút tỉa từ kinh Dhammapada (Kinh Pháp Cú) và các kinh trong phẩm thứ tư của Tam Tạng Kinh là Anguttara Nikaya (Tăng chi hay Tăng nhất bộ kinh)
24/06/2021(Xem: 4180)
Lòng Từ bi là một giá trị phổ quát. Tranh đấu cho công bằng xã hội – nghĩa là bảo đảm quyền lợi và cơ hội bình đẳng cho tất cả mọi người – thường xuất phát từ sự phẫn nộ, thúc đẩy con người chống lại những bất công có hệ thống. Tôi tin rằng đấu tranh cho công bằng xã hội sẽ có hiệu quả tốt nhất nếu được kích hoạt bởi lòng từ bi. Nếu động lực đấu tranh cho công bằng xã hội của chúng ta là do lòng từ bi đích thực, chúng ta sẽ được tiếp thêm năng lượng để hoạt động tích cực hơn nhằm bảo đảm cho tất cả mọi người có được một phẩm chất đời sống xứng đáng. Tôi tin rằng nữ giới có thể đóng một vai trò đặc biệt trong việc đấu tranh cho công bằng xã hội bằng cách tu tập lòng từ bi và trí tuệ.
07/05/2021(Xem: 16537)
Phật Điển Thông Dụng - Lối Vào Tuệ Giác Phật, BAN BIÊN TẬP BẢN TIẾNG ANH Tổng biên tập: Hòa thượng BRAHMAPUNDIT Biên tập viên: PETER HARVEY BAN PHIÊN DỊCH BẢN TIẾNG VIỆT Chủ biên và hiệu đính: THÍCH NHẬT TỪ Dịch giả tiếng Việt: Thích Viên Minh (chương 11, 12) Thích Đồng Đắc (chương 1, 2) Thích Thanh Lương (chương 8) Thích Ngộ Trí Đức (chương 7) Thích Nữ Diệu Nga (chương 3, 4) Thích Nữ Diệu Như (chương 9) Đặng Thị Hường (giới thiệu tổng quan, chương 6, 10) Lại Viết Thắng (phụ lục) Võ Thị Thúy Vy (chương 5) MỤC LỤC Bảng viết tắt Bối cảnh quyển sách và những người đóng góp Lời giới thiệu của HT Tổng biên tập Lời nói đầu của Chủ biên bản dịch tiếng Việt GIỚI THIỆU TỔNG QUAN Giới thiệu dẫn nhập Giới thiệu về cuộc đời đức Phật lịch sử Giới thiệu về Tăng đoàn: Cộng đồng tâm linh Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Thượng tọa bộ Giới thiệu về các đoạn kinh của Phật giáo Đại thừa Giới thiệu về các đoạn kinhcủa Phật giáo Kim cương thừa PHẦN I: CUỘC ĐỜI ĐỨC
29/11/2020(Xem: 12516)
“Ma” tiếng Phạn gọi là Mara, Tàu dịch là “Sát,” bởi nó hay cướp của công đức, giết hại mạng sống trí huệ của người tu. “Ma” cũng chỉ cho những duyên phá hoại làm hành giả thối thất đạo tâm, cuồng loạn mất chánh niệm, hoặc sanh tà kiến làm điều ác, rồi kết cuộc bị sa đọa. Những việc phát sanh công đức trí huệ, đưa loài hữu tình đến Niết-bàn, gọi là Phật sự. Các điều phá hoại căn lành, khiến cho chúng sanh chịu khổ đọa trong luân hồi sanh tử, gọi là Ma sự. Người tu càng lâu, đạo càng cao, mới thấy rõ việc ma càng hung hiểm cường thạnh. Theo Hòa Thượng Thích Thiền Tâm trong "Niệm Phật Thập Yếu", Ma tuy nhiều, nhưng cốt yếu chỉ có ba loại: Phiền não ma, Ngoại ma và Thiên ma
04/11/2020(Xem: 7777)
Những chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn: Các chúng sanh thuộc hàng Thanh Văn được chứng ngộ khi nghe được những học thuyết về các Uẩn, Giới, Xứ, nhưng lại không đặc biệt lưu tâm đến lý nhân quả. Họ giải thoát được sự trói buộc của các phiền não nhưng vẫn chưa đoạn diệt được tập khí của mình. Họ đạt được sự thể chứng Niết-Bàn, và an trú trong trạng thái ấy, họ tuyên bố rằng họ đã chấm dứt sự hiện hữu, đạt được đời sống Phạm hạnh, tất cả những gì cần phải làm đã được làm, họ sẽ không còn tái sinh nữa. Những vị nầy đã đạt được Tuệ kiến về sự Phi hiện hữu của “Ngã thể” trong một con người, nhưng vẫn chưa thấy được sự Phi hiện hữu trong các sự vật. Những nhà lãnh đạo triết học nào tin vào một "Đấng Sáng Tạo" hay tin vào “Linh hồn” cũng có thể được xếp vào đẳng cấp nầy.
03/10/2020(Xem: 19963)
Đây là một bài nghị luận về Lý Duyên Khởi được Ajahn Brahm viết lần đầu tiên hơn hai thập niên trước. Vào lúc đó, ngài quan tâm nhiều hơn đến những chi tiết phức tạp trong việc giảng dạy kinh điển. Vì lý do đó bài nghị luận này có tính cách hoàn toàn chuyên môn, so với những gì ngài giảng dạy hiện nay. Một trong những học giả Phật học nổi tiếng nhất hiện nay về kinh điển Phật giáo đương đại là Ngài Bhikkhu Bodhi, đã nói với tôi rằng “Đây là bài tham luận hay nhất mà tôi được đọc về đề tài này”.
05/04/2020(Xem: 11621)
Luận Đại Thừa Trăm Pháp do Bồ tát Thế Thân (TK IV TL) tạo nêu rõ tám thức tâm vương hàm Tâm Ý Thức thuộc ngành tâm lý – Duy Thức Học và là một tông phái: Duy Thức Tông - thuộc Đại Thừa Phật Giáo. Tâm Ý Thức như trở thành một đề tài lớn, quan trọng, bàn cải bất tận lâu nay trong giới Phật học thuộc tâm lý học. Bồ Tát Thế Thântạo luận, lập Du Già Hành Tông ở Ấn Độ, và sau 3 thế kỷ pháp sư Huyền Trang du học sang Ấn Độ học tông này với Ngài Giới Hiền tại đại học Na Lan Đà (Ấn Độ) năm 626 Tây Lịch. Sau khi trở về nước (TH) Huyền Trang lập Duy Thức Tông và truyền thừa cho Khuy Cơ (632-682) xiển dương giáo nghĩa lưu truyền hậu thế.
30/03/2020(Xem: 9095)
Những người Cơ đốc giáo thường đặt vấn đề: Thượng đế có phải là một con người hay không? Nếu Thượng đế không phải là một con người thì làm sao chúng ta có thể cầu nguyện? Đây là một vấn đề rất lớn trong Cơ đốc giáo. (God is a person or is not a person?)
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567