Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi

01/07/201100:59(Xem: 3996)
23. Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những câu hỏi

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Ojai, ngày 21 tháng 8 năm 1955, Những Câu Hỏi

Người hỏi: Chức năng của cái trí là suy nghĩ. Tôi đã trải qua nhiều năm suy nghĩ về những sự việc mà tất cả chúng ta biết – kinh doanh, khoa học, triết lý, tâm lý, nghệ thuật và vân vân – và bây giờ tôi suy nghĩ nhiều về Thượng đế. Từ việc tìm hiểu những biến cố của nhiều điều huyền bí và những tác giả tôn giáo khác, tôi được thuyết phục rằng Thượng đế tồn tại, và tôi có thể đóng góp những suy nghĩ riêng của tôi về chủ đề này. Có gì sai trái với việc này? Suy nghĩ về Thượng đế không giúp đỡ tạo ra nhận biết về Thượng đế hay sao?

Krishnamurti: Bạn có thể suy nghĩ về Thượng đế à? Bạn có thể được thuyết phục về sự tồn tại của Thượng đế bởi vì bạn đã đọc được tất cả những chứng cớ hay sao? Những người vô thần cũng có chứng cớ của anh ấy; anh ấy có thể đã nghiên cứu nhiều như bạn, và anh ấy nói rằng không có Thượng đế. Bạn tin rằng có Thượng đế và anh ấy tin rằng không có; cả hai đều có những niềm tin, cả hai bạn đều mất nhiều thời gian của các bạn để suy nghĩ về Thượng đế. Nhưng trước khi bạn suy nghĩ về điều gì đó mà bạn không biết, bạn phải tìm ra suy nghĩ là gì, phải vậy không? Làm thế nào bạn có thể suy nghĩ một điều gì đó mà bạn không biết? Bạn có lẽ đã đọc kinh Bible, kinh Bhagavad Gita, hay những quyển sách khác mà trong đó vô số những học giả uyên bác đã diễn giải khéo léo Thượng đế là gì, khẳng định điều này và phủ nhận điều kia, nhưng chừng nào bạn còn không biết qui trình suy nghĩ riêng của bạn, điều gì bạn suy nghĩ về Thượng đế có lẽ là xuẩn ngốc và nhỏ nhoi, và thông thường nó đều như vậy. Bạn có lẽ sưu tập nhiều chứng cớ cho sự tồn tại của Thượng đế và viết rất nhiều bài văn hay ho về nó, nhưng chắc chắn câu hỏi đầu tiên là, làm thế nào bạn biết được điều gì bạn suy nghĩ là sự thật? Suy nghĩ có khi nào tạo ra trải nghiệm về cái không thể biết được hay sao? Mà không có nghĩa rằng bạn phải chấp nhận một cách cảm xúc, một cách cảm tính, một cảm nghĩ vô ích nào đó về Thượng đế.

Vì vậy rất quan trọng phải tìm ra liệu cái trí của bạn có bị quy định hay không, hơn là tìm kiếm cái không bị quy định? Chắc chắn nếu cái trí của bạn bị quy định, mà nó là như vậy dù nó có tìm hiểu sự thật về Thượng đế nhiều bao nhiêu, nó chỉ có thể thâu lượm hiểu biết hay thông tin tùy theo tình trạng bị quy định của nó. Vì vậy suy nghĩ của bạn về Thượng đế là một lãng phí hoàn toàn của thời gian, nó là một phỏng đoán mà không có giá trị nào cả. Giống như tôi đang ngồi trong cánh rừng nhỏ này và ao ước được ở trên đỉnh núi kia (trong nền tảng quá khứ). Nếu tôi thực sự muốn tìm ra có cái gì trên đỉnh núi và vượt khỏi nó, tôi phải đi tới nó. Không tốt lành gì cả khi ngồi ở đây phỏng đoán, dựng lên những đền chùa, những nhà thờ, và hưng phấn về chúng. Điều gì tôi phải làm là đứng dậy, đi, đấu tranh, thúc đẩy, đến đó, và tìm ra; nhưng bởi vì hầu hết chúng ta đều không sẵn lòng làm việc đó, chúng ta hài lòng với việc ngồi ở đây và phỏng đoán về cái gì đó mà chúng ta không biết. Và tôi nói rằng sự phỏng đoán như thế là một cản trở, nó là một thoái hóa của cái trí, nó không có giá trị gì cả; nó chỉ mang lại nhiều hoang mang hơn, nhiều đau khổ hơn cho con người.

Thượng đế là điều gì đó không thể nói được, không thể diễn tả được, không thể đặt vào những từ ngữ, bởi vì nó phải luôn luôn ở cùng cái không biết được. Khoảnh khắc qui trình công nhận xảy ra, bạn quay lại trong lãnh vực của ký ức. Bạn hiểu rõ không? Ví dụ như bạn có một trải nghiệm ngay tức khắc của một cái gì đó lạ thường. Tại ngay khoảnh khắc đó không có người suy nghĩ nói rằng, “Tôi phải nhớ nó.” Chỉ có trạng thái trải nghiệm. Nhưng khi khoảnh khắc đó qua rồi, qui trình công nhận hiện diện. Làm ơn hãy theo sát điều này. Cái trí nói rằng, “Tôi có một trải nghiệm tuyệt vời và tôi ước rằng tôi có thể hưởng được nó nhiều hơn nữa”, vì vậy sự đấu tranh cho nhiều hơn bắt đầu. Bản năng thâu lợi, sự theo đuổi chiếm hữu của nhiều hơn, hiện diện vì những lý do khác nhau: bởi vì nó cho bạn vui thú, thanh danh, hiểu biết, bạn trở thành một uy quyền, và mọi chuyện vô nghĩa đó.

Cái trí theo đuổi cái đó mà nó đã trải nghiệm, nhưng cái đó mà nó đã trải nghiệm đã hết rồi, chết rồi, qua rồi. Muốn khám phá cái là, cái trí phải chết đi cái đó mà nó đã trải nghiệm. Đây không là cái gì đó, có thể được vun quén ngày sang ngày, có thể được thâu lượm, được tích lũy, được giữ chặt và rồi được nói và được viết về. Tất cả mọi việc mà chúng ta có thể làm là thấy rằng cái trí bị quy định và nhờ vào hiểu rõ về chính mình sẽ hiểu rõ qui trình suy nghĩ riêng của chúng ta. Tôi phải hiểu rõ về chính tôi, không phải theo lý thuyết như tôi muốn là, nhưng như tôi thực sự là, dù xấu xa hay đẹp đẽ, dù ganh tị, ghen tuông, tham lợi. Nhưng rất khó khăn khi chỉ thấy người ta là gì mà không ao ước thay đổi nó, và chính ham muốn thay đổi đó là một hình thức khác của tình trạng bị quy định; và thế là chúng ta tiếp tục, chuyển động từ tình trạng bị quy định sang tình trạng bị quy định, không bao giờ trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi cái bị giới hạn.

Người hỏi: Tôi đã lắng nghe ông nhiều năm và tôi đã khá giỏi trong sự quan sát những tư tưởng riêng của tôi và tỉnh thức được mọi sự việc tôi làm, nhưng tôi chưa bao giờ chạm được những dòng nước thăm thẳm hay trải nghiệm được sự thay đổi mà ông nói. Tại sao vậy?

K: Tôi nghĩ khá rõ ràng rằng tại sao không một ai trong chúng ta trải nghiệm cái gì đó vượt khỏi sự quan sát thuần túy. Có những khoảnh khắc hiếm hoi của một trạng thái cảm xúc mà trong đó chúng ta thấy, như nó đã là, sự rõ ràng của bầu trời giữa những đám mây, nhưng tôi không có ý nói bất kỳ điều gì thuộc loại đó. Tất cả những trải nghiệm như thế đều nhất thời và không có ý nghĩa bao nhiêu. Người hỏi muốn biết tại sao, sau nhiều năm quan sát này, anh ấy vẫn chưa tìm được những dòng nước sâu thẳm. Tại sao anh ấy phải tìm chúng? Bạn hiểu rõ không? Bạn nghĩ rằng bằng cách quan sát những suy nghĩ riêng của bạn bạn sẽ nhận được một phần thưởng; nếu bạn làm việc này, bạn sẽ nhận được cái khác lạ. Bạn thực sự không đang quan sát gì cả, bởi vì cái trí của bạn quan tâm đến kiếm được một phần thưởng. Bạn nghĩ rằng qua quan sát, qua tỉnh thức, bạn sẽ thương yêu nhiều hơn, bạn sẽ đau khổ ít hơn, bực dọc ít hơn, có cái gì đó vượt khỏi, vì vậy quan sát của bạn là một qui trình của mua bán. Với đồng xu này bạn đang mua cái khác lạ, mà có nghĩa rằng quan sát của bạn là một qui trình của chọn lựa; vì vậy nó không đang quan sát, nó không là chú ý. Quan sát là quan sát mà không có chọn lựa, thấy chính bạn như bạn là mà không có bất kỳ chuyển động của ham muốn để thay đổi, mà là một sự việc cực kỳ gian khổ khi thực hiện; nhưng điều đó không có nghĩa rằng bạn sẽ vẫn còn ở trong trạng thái hiện tại của bạn. Bạn không biết điều gì sẽ xảy ra nếu bạn thấy chính mình như bạn là mà không ao ước tạo ra một thay đổi trong điều bạn thấy. Bạn hiểu rõ không?

Tôi sẽ đưa ra một thí dụ và giải thích nó, và bạn sẽ thấy. Chúng ta hãy thí dụ là tôi bạo lực, như hầu hết mọi người đều như vậy. Toàn nền văn hóa của chúng ta là bạo lực – nhưng lúc này tôi sẽ không trình bày về cấu trúc của bạo lực bởi vì đó không là vấn đề chúng ta tìm hiểu. Tôi bạo lực và tôi nhận ra rằng tôi bạo lực. Chuyện gì xảy ra? Phản ứng ngay tức khắc của tôi là tôi phải làm một cái gì đó về nó, phải không? Tôi nói rằng tôi phải trở thành không bạo lực. Đó là điều gì mọi vị thầy đã bảo cho chúng ta trong hàng thế kỷ: nếu người ta bạo lực người ta phải trở thành không bạo lực. Vì vậy tôi luyện tập, tôi làm tất cả những sự việc thuộc học thuyết. Nhưng bây giờ tôi thấy điều đó xuẩn ngốc như thế nào bởi vì cái thực thể mà quan sát bạo lực, và ao ước thay đổi nó thành không bạo lực, vẫn còn là bạo lực. Vì vậy tôi quan tâm, không phải với sự diễn tả của thực thể đó, nhưng với chính thực thể. Tôi hy vọng bạn đang theo kịp tất cả điều này.

Bây giờ thực thể đó mà nói rằng, “Tôi phải không bạo lực” là gì? Thực thể đó có khác biệt bạo lực mà anh ấy quan sát hay không? Chúng có là hai trạng thái khác biệt hay không? Bạn hiểu rõ chứ, thưa các bạn, hay điều này quá trừu tượng? Chắc chắn bạo lực và thực thể mà nói rằng, “Tôi phải thay đổi bạo lực thành không bạo lực” cả hai đều là một. Công nhận sự kiện đó là kết thúc mọi xung đột, phải vậy không? Không còn xung đột của cố gắng để thay đổi, bởi vì tôi thấy rằng chính chuyển động của cái trí không bạo lực là chính kết quả của bạo lực.
Người hỏi muốn biết tại sao anh ấy không thể vượt khỏi tất cả những tranh cãi hời hợt này của cái trí. Bởi vì lý do rất đơn giản rằng, có ý thức hay không ý thức, cái trí đang luôn luôn tìm kiếm cái gì đó, và chính tìm kiếm đó mang lại bạo lực, ganh đua, ý thức của bất mãn hoàn toàn. Chỉ khi nào cái trí hoàn toàn tĩnh lặng mới có khả năng tiếp xúc được những dòng nước thăm thẳm.

Người hỏi: Khi chúng ta chết, chúng ta có được sinh lại trên quả đất này, hay chúng ta chuyển vào thế giới nào khác?

K: Câu hỏi này gây hứng thú cho tất cả chúng ta, người trẻ lẫn người già, phải vậy không? Vì vậy tôi sẽ tìm hiểu nó sâu sắc, và tôi hy vọng bạn sẽ đủ tỉnh táo để theo sát, không phải chỉ những từ ngữ, nhưng trải nghiệm thực sự của điều gì tôi sẽ thảo luận cùng bạn.

Tất cả chúng ta đều biết rằng chết tồn tại, đặc biệt những người già hơn, và cũng vậy những người trẻ mà quan sát nó. Người ta nói, “Hãy chờ cho đến khi nó đến và chúng ta sẽ xử lý nó.” Và những người già, mà gần cái chết hơn, đã lặp lại những hình thức khác nhau của an ủi.

Làm ơn theo sát và áp dụng việc này cho chính các bạn, đừng đặt nó vào một người nào khác. Bởi vì bạn biết rằng bạn sẽ chết; bạn có những lý thuyết về nó, phải không? Bạn tin Thượng đế. Bạn tin sống lại hay nghiệp lực và luân hồi. Bạn nói rằng bạn sẽ sinh lại ở đây hay trong một thế giới khác. Hay bạn lý luận về chết, nói rằng chết là điều không tránh khỏi, nó xảy ra cho mọi người; cái cây héo tàn đi, nuôi dưỡng đất đai, và một cây mới mọc lên. Hay khác hẳn bạn quá bận rộn với những lo âu, những buồn phiền, những ganh tị, những ghen tuông hàng ngày của bạn, với những ganh đua của bạn và giàu sang của bạn, nên không suy nghĩ về chết gì cả. Nhưng nó ở trong cái trí của bạn; có ý thức hay không ý thức nó ở đó.

Trước hết, liệu bạn có được tự do khỏi những niềm tin, những lý lẽ hay những dửng dưng mà bạn đã nuôi dưỡng về chết hay không? Liệu bạn có thể được tự do khỏi tất cả việc đó ngay lúc này? Bởi vì điều gì quan trọng là thâm nhập vào ngôi nhà của chết trong khi đang sống, trong khi còn ý thức, năng động, còn sức khỏe, và không phải chờ đợi sự đến gần của cái chết, mà có thể mang bạn đi ngay tức khắc qua một tai nạn, hay qua một bệnh tật mà từ từ làm cho bạn không còn ý thức. Khi chết đến nó phải là một khoảnh khắc lạ thường mà sinh động như đang sống.

Bây giờ, liệu rằng tôi, liệu rằng bạn có thể, thâm nhập vào căn nhà của chết trong khi đang sống hay không? Đó là vấn đề, không phải liệu có luân hồi, hay liệu có một thế giới khác nơi bạn sẽ sinh lại, mà cũng là quá không chín chắn, quá trẻ con. Một con người sống không bao giờ hỏi sống là gì và anh ấy không có những lý thuyết về sống. Chỉ có những con người dật dờ mới nói về mục đích của sống.

Vì vậy liệu bạn và tôi, trong khi sống, có ý thức, năng động, kèm theo tất cả những khả năng của chúng ta dù chúng có lẽ là gì chăng nữa, biết chết là gì được không? Vậy thì chết có khác sống hay không? Đối với hầu hết chúng ta, sống là một tiếp tục của cái đó mà chúng ta nghĩ là vĩnh cửu. Tên tuổi của chúng ta, gia đình của chúng ta, tài sản của chúng ta, những sự việc chúng ta quan tâm thuộc kinh tế, tinh thần, những đạo đức chúng ta đã vun quén, những sự việc chúng ta đã thâu lượm một cách cảm xúc; tất cả việc đó chúng ta muốn tiếp tục. Và khoảnh khắc chúng ta gọi là chết là một khoảnh khắc của cái không biết được. Vì vậy chúng ta bị kinh hãi, vì vậy chúng ta cố gắng tìm ra một an ủi, một loại thanh thản nào đó; chúng ta muốn biết liệu có một cuộc sống sau chết, và hàng tá sự việc khác. Những điều đó là những vấn đề không liên quan; chúng là những vấn đề dành cho những người lười biếng, cho những người không muốn tìm ra chết là gì trong khi đang sống. Vì vậy liệu bạn và tôi có thể tìm ra?

Chết là gì? Chắc chắn nó là sự kết thúc hoàn toàn của mọi thứ mà bạn đã biết. Nếu nó không là kết thúc của mọi thứ mà bạn đã biết, nó không là chết. Nếu bạn chết rồi vậy thì bạn không có gì phải sợ hãi. Nhưng bạn biết chết chưa? Đó là, liệu khi đang sống bạn có thể kết thúc sự tranh đấu mãi mãi này để tìm ra, trong cái không vĩnh cửu, cái gì đó sẽ tiếp tục. Liệu bạn có thể biết cái không thể biết được, trạng thái đó mà chúng ta gọi là chết, trong khi đang sống? Liệu bạn có thể gạt đi tất cả những diễn tả của việc gì xảy ra sau khi chết do bởi bạn đã đọc trong những quyển sách, hay do bởi sự ham muốn không ý thức của bạn để chiều theo những ra lệnh cho sự thanh thản, và thưởng thức hay trải nghiệm trạng thái đó – mà phải là lạ thường – ngay lúc này? Nếu trạng thái đó được trải nghiệm ngay lúc này, vậy thì sống và chết là một.

Vì vậy liệu tôi, người có giáo dục, hiểu biết rất nhiều, người có vô số những trải nghiệm, những đấu tranh, những tình yêu, những hận thù, có thể, liệu cái “tôi” đó có thể kết thúc? Cái “tôi” là ký ức được ghi lại của tất cả việc đó; và liệu cái “tôi” đó có thể kết thúc? Nếu không bị mang đến một kết thúc bởi một tai nạn, bởi một bệnh tật, liệu trong khi đang ngồi đây bạn và tôi có thể biết được kết thúc đó? Vậy thì bạn sẽ phát giác rằng bạn sẽ không còn hỏi những câu hỏi ngu xuẩn về chết và sự tiếp tục, hay liệu có một thế giới tiếp theo đây. Vậy thì bạn sẽ biết đáp án cho chính bạn bởi vì cái không thể biết được sẽ hiện diện. Vậy thì bạn sẽ gạt đi toàn huyên thuyên của sống lại, và nhiều sợ hãi – sợ hãi sống và sợ hãi chết, sợ hãi già nua và gieo khổ sở cho những người khác khi phải lo âu chăm sóc bạn, sợ hãi cô đơn và lệ thuộc – tất cả đều sẽ kết thúc. Đây không là những từ ngữ hão huyền. Chỉ khi nào cái trí kết thúc suy nghĩ dựa vào sự tiếp tục riêng của nó thì cái không thể biết được mới hiện hiện.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/10/2024(Xem: 246)
Bầu không khí chính trị trên thế giới hiện nay đang nóng bỏng vì khuynh hướng độc tài, cực đoan, chia rẽ, hận thù và cuồng vọng không thua kém gì bầu khí quyển của địa cầu đang nóng dần lên do khí thải nhà kính gây ra. Cả hai đều do con người tạo ra và đều là thảm họa cho nhân loại! Nhưng thảm họa này không phải là điều không thể giải quyết được, bởi lẽ những gì do con người gây ra cũng đều có thể do con người ngăn chận và hóa giải được. Cụ thể là hàng chục năm qua, Liên Hiệp Quốc đã nỗ lực kêu gọi, bằng các nghị quyết, các quốc gia cố gắng thực hiện các biện pháp giảm khí thải nhà kính, với các chính sách cắt giảm lượng tiêu thụ nhiên liệu hóa thạch, gia tăng sản lượng xe chạy bằng điện năng, v.v… Dù kết quả chưa đạt được mức yêu cầu, nhưng cũng đã gây được ý thức và thể hiện quyết tâm của cộng đồng thế giới trong việc giải quyết thảm họa của khí thải nhà kính.
04/06/2024(Xem: 2825)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 727)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2347)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2590)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3086)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 6057)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2376)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2824)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com