Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

01/07/201100:59(Xem: 3536)
12. Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

Người hỏi: Người ta có thể thương yêu sự thật mà không thương yêu con người hay không? Người ta có thể thương yêu con người mà không thương yêu sự thật hay không? Cái nào đến trước?

K: Chắc chắn, thưa bạn, tình yêu đến trước. Bởi vì muốn thương yêu sự thật bạn phải biết sự thật, và biết sự thật là phủ nhận nó. Cái gì đã được biết không là sự thật bởi vì cái gì đã được biết đã bị bao phủ trong thời gian; vì vậy nó ngừng là sự thật. Sự thật trong chuyển động liên tục và vì vậy không thể được đo lường trong thời gian hay trong những từ ngữ; nó không thể bị nhốt chặt trong nắm tay của bạn. Vì vậy thương yêu sự thật là biết sự thật – bạn không thể thương yêu một cái gì đó mà bạn không biết. Nhưng sự thật không phải được tìm kiếm trong những quyển sách, trong tôn thờ những hình tượng, trong những đền chùa. Nó phải được tìm thấy trong hành động, trong đang sống, trong đang suy nghĩ; và vì vậy tình yêu đến trước – điều đó rõ ràng, tìm kiếm cái không biết được chính là tình yêu, và bạn không thể tìm kiếm cái không biết được nếu không ở trong liên hệ với những người khác. Bạn không thể tìm ra sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn, bằng cách rút vào cô lập. Bạn có thể tìm ra cái không biết được chỉ trong liên hệ, chỉ khi con người liên hệ với con người. Vì vậy tình yêu con người là sự tìm kiếm sự thật.

Nếu không thương yêu con người, nếu không thương yêu nhân loại, không thể nào có một tìm kiếm sự thật; bởi vì khi tôi biết bạn – ít nhất khi tôi cố gắng biết bạn trong liên hệ – trong liên hệ đó tôi đang khởi đầu biết chính mình. Liên hệ là một cái gương trong đó tôi đang tự khám phá chính mình, không phải cái tôi “cao hơn” của tôi, nhưng tiến hành trọn vẹn, tổng thể của chính tôi. Cái tôi “cao hơn” và cái tôi “thấp hơn” vẫn còn trong lãnh vực của cái trí; và nếu không hiểu rõ cái trí, người suy nghĩ, làm thế nào tôi có thể vượt khỏi tư tưởng, và khám phá? Chính liên hệ là tìm kiếm sự thật bởi vì đó là cách tiếp xúc duy nhất tôi có với chính bản thân tôi; vì vậy hiểu rõ về chính tôi trong liên hệ là khởi đầu của sống, chắc chắn như vậy. Nếu tôi không biết làm thế nào để thương yêu bạn, bạn là người tôi đang liên hệ, làm thế nào tôi có thể tìm kiếm sự thật, và vì vậy thương yêu sự thật? Nếu không có bạn, tôi không hiện hữu, đúng chứ? Tôi không thể tồn tại tách rời khỏi bạn, tôi không thể tồn tại trong cô lập. Vì vậy trong liên hệ của chúng ta, trong liên hệ giữa bạn và tôi, tôi đang khởi đầu hiểu rõ chính tôi; và hiểu rõ về chính tôi là khởi đầu của thông minh, phải vậy không? Vì vậy tìm kiếm sự thật là khởi đầu của tình yêu trong liên hệ. Muốn thương yêu một cái gì đó bạn phải biết nó, bạn phải hiểu rõ nó, phải vậy không? Muốn thương yêu bạn tôi phải biết bạn, tôi phải tìm hiểu, tôi phải tìm ra, tôi phải thâu nhận tất cả những tâm trạng của bạn, những thay đổi của bạn, và không phải khép kín chính bản thân tôi trong những tham vọng, những theo đuổi, và những ham muốn của tôi. Và trong biết bạn tôi đang khởi đầu khám phá chính bản thân tôi. Nếu không có bạn, tôi không thể hiện hữu; và nếu tôi không hiểu rõ liên hệ đó giữa bạn và tôi, làm thế nào có thể có tình yêu? Và chắc chắn nếu không có tình yêu không có tìm kiếm, đúng chứ? Bạn không thể nói rằng người ta phải thương yêu sự thật; bởi vì muốn thương yêu sự thật, bạn phải biết sự thật. Bạn biết sự thật không? Bạn biết sự thật là gì không? Ngay khoảnh khắc bạn biết một cái gì đó, nó đã trôi qua rồi, phải không? Nó đã ở trong lãnh vực của thời gian rồi, vì vậy nó ngừng là sự thật.

Vấn đề của chúng ta là: làm thế nào một tâm hồn cằn cỗi, một tâm hồn trống rỗng, biết được sự thật? Nó không thể. Sự thật không là một điều gì đó xa xôi. Nó rất gần gũi, nhưng chúng ta không biết tìm kiếm nó như thế nào. Muốn tìm kiếm nó, chúng ta phải hiểu rõ liên hệ, không chỉ với con người mà còn với thiên nhiên, với những ý tưởng. Tôi phải hiểu rõ liên hệ của tôi với quả đất, và liên hệ của tôi với sự hình thành ý tưởng, cũng như liên hệ của tôi với bạn; và với mục đích hiểu rõ, chắc chắn phải có khoáng đạt. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải khoáng đạt với bạn, tôi phải thâu nhận, tôi không được bám chặt bất kỳ cái gì, không thể có một qui trình cô lập. Trong hiểu rõ có sự thật, và muốn hiểu rõ phải có tình yêu; vì nếu không có tình yêu, không thể có hiểu rõ. Vì vậy không phải con người hay sự thật đến trước, nhưng tình yêu; và tình yêu hiện hữu chỉ trong hiểu rõ liên hệ, mà có nghĩa rằng người ta khoáng đạt trong liên hệ, và vì vậy mở toang đến sự thật. Sự thật không thể được mời mọc, nó phải đến với bạn. Tìm kiếm sự thật là phủ nhận sự thật. Sự thật đến với bạn khi bạn khoáng đạt, khi bạn hoàn toàn không có một rào chắn, khi người suy nghĩ không còn đang suy nghĩ, đang tạo tác, đang sáng chế, khi cái trí rất tĩnh lặng – không bị cưỡng bách, không bị áp lực của thuốc men, không bị thuộc lòng bởi những từ ngữ, bởi lặp lại. Sự thật phải đến. Khi người suy nghĩ tìm kiếm sự thật, anh ấy chỉ đang theo đuổi lợi lộc riêng của anh ấy. Vì vậy sự thật lẩn tránh anh ấy Người suy nghĩ có thể quan sát được chỉ trong liên hệ; và muốn hiểu rõ phải có tình yêu. Nếu không có tình yêu không có tìm kiếm.

Người hỏi: Ông không bao giờ đề cập Thượng đế. Ngài không có vị trí trong những lời giáo huấn của ông à?

K: Bạn nói nhiều về Thượng đế phải không? Những quyển sách của bạn đầy ắp nó. Bạn xây dựng những nhà thờ, những đền chùa, bạn thực hiện những hiến dâng, bạn làm những nghi lễ, tổ chức những thánh lễ, và bạn ngập tràn những ý tưởng về Thượng đế, phải không? Bạn lặp lại những từ ngữ, nhưng những hành động của bạn không có tánh Thượng đế, phải không? Mặc dù bạn tôn thờ điều gì bạn gọi là Thượng đế, những phương cách của bạn, những suy nghĩ của bạn, sự tồn tại của bạn, không có tánh Thượng đế, phải không? Mặc dù bạn lặp lại từ ngữ Thượng đế, bạn bóc lột những người khác, phải không? Bạn có những vị Thượng đế của bạn – Ấn độ giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, và những tôn giáo khác. Bạn dựng lên những đền chùa, và bạn càng giàu có bao nhiêu, bạn càng dựng lên những đền chùa nhiều bấy nhiêu. [Tiếng cười]. Đừng cười. Chính bạn muốn làm điều đó – chỉ vì bạn vẫn đang cố gắng trở nên giàu có, đó là tất cả.

Vì vậy bạn rất thân thuộc với Thượng đế, ít ra bằng từ ngữ; nhưng từ ngữ không là Thượng đế, từ ngữ không là sự việc. Chúng ta hãy rất rõ ràng về quan điểm này: từ ngữ không là Thượng đế. Bạn có lẽ sử dụng từ ngữ Thượng đế hay từ ngữ nào khác, nhưng Thượng đế không là từ ngữ mà bạn sử dụng. Bởi vì bạn sử dụng nó, điều đó không có nghĩa rằng bạn biết Thượng đế; bạn chỉ biết từ ngữ. Tôi không sử dụng từ ngữ đó bởi lý do rất đơn giản là bạn biết nó. Điều gì bạn biết không là sự thật. Và ngoài ra, muốn tìm ra sự thật, tất cả những huyên thuyên thuộc từ ngữ của cái trí phải kết thúc, đúng chứ? Bạn có những hình ảnh về Thượng đế, nhưng hình ảnh không là Thượng đế, chắc chắn như thế. Làm thế nào bạn có thể biết được Thượng đế? Rõ ràng không qua một hình ảnh, không qua một đền chùa. Muốn thâu nhận Thượng đế, cái không biết được, cái trí phải là cái không biết được. Nếu bạn theo đuổi Thượng đế, vậy thì bạn đã biết Thượng đế rồi, bạn biết cái kết thúc. Bạn biết cái gì bạn đang theo đuổi, phải không? Nếu bạn tìm kiếm Thượng đế, bạn phải biết Thượng đế là gì; nếu không bạn sẽ không tìm kiếm Ngài, phải không? Bạn tìm kiếm Ngài hoặc tùy theo những quyển sách của bạn, hoặc tùy theo những cảm thấy của bạn, và những cảm thấy của bạn chỉ là sự phản hồi của ký ức. Vì vậy cái bạn tìm kiếm đã được tạo tác trước rồi, hoặc nhờ vào ký ức hoặc bởi nghe người ta nói, và cái được sáng chế không là cái vĩnh cửu – nó là sản phẩm của cái trí. Nếu không có những quyển sách, nếu không có những vị đạo sư, không có những công thức để được lặp lại, bạn chỉ biết đau khổ và hạnh phúc, phải không? – đau khổ và sầu muộn liên tục, và những khoảnh khắc hiếm hoi của hạnh phúc. Và thế là bạn muốn biết tại sao bạn đau khổ. Bạn không thể tẩu thoát đến Thượng đế – nhưng bạn có thể tẩu thoát trong những phương cách khác, và chẳng mấy chốc sáng chế những vị Thượng đế như một tẩu thoát. Nhưng nếu bạn thực sự muốn hiểu rõ toàn qui trình của đau khổ, như một con người mới mẻ, một con người trong sáng, đang tìm hiểu và không đang tẩu thoát, vậy thì bạn sẽ làm tự do chính bạn khỏi đau khổ, vậy thì bạn sẽ tìm ra sự thật là gì, Thượng đế là gì. Nhưng một con người trong đau khổ không thể tìm ra Thượng đế hay sự thật; sự thật có thể tìm được chỉ khi nào đau khổ kết thúc, khi có hạnh phúc, không phải như một tương phản, không phải như một đối nghịch, nhưng trạng thái tồn tại đó mà không có những đối nghịch.

Vì vậy cái không biết được, cái đó mà không bị sáng chế bởi cái trí, không thể được hình thành bởi cái trí. Cái không biết được không thể được suy nghĩ về nó. Khoảnh khắc bạn suy nghĩ về cái không biết được, nó là cái đã được biết rồi. Chắc chắn bạn không thể suy nghĩ về cái không biết được, đúng chứ? Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái đã được biết. Tư tưởng chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết; và cái gì đã được biết không là sự thật, đúng chứ? Vì vậy, khi bạn suy nghĩ và thiền định, khi bạn ngồi xưống và suy nghĩ về Thượng đế, bạn chỉ suy nghĩ về cái gì đã được biết, và cái gì đã được biết ở trong thời gian; nó bị trói buộc trong mạng lưới của thời gian, và vì vậy không là sự thật. Sự thật có thể hiện diện chỉ khi nào cái trí được tự do khỏi mạng lưới của thời gian. Khi cái trí không còn tạo tác, có sáng tạo. Đó là cái trí phải tuyệt đối tĩnh lặng, nhưng không phải với một trạng thái chết lặng bị thôi miên, bị kích thích, đó chỉ là một kết quả. Cố gắng để trở nên tĩnh lặng vì mục đích trải nghiệm sự thật là một hình thức khác của tẩu thoát. Có tĩnh lặng chỉ khi nào mọi vấn đề đã kết thúc. Như cái ao lặng yên khi cơn gió ngừng lại, vì vậy cái trí tự nhiên tĩnh lặng khi người kích động, người suy nghĩ, không còn. Muốn kết thúc người suy nghĩ, tất cả những suy nghĩ mà anh ấy sáng chế phải được nở hoa. Thật không tốt gì khi dựng lên một rào chắn, một kháng cự lại suy nghĩ, bởi vì những suy nghĩ phải được thấy trọn vẹn.

Khi cái trí tĩnh lặng, sự thật, cái không thể diễn tả được, hiện diện. Bạn không thể mời mọc nó. Muốn mời mọc nó, bạn phải biết nó, và cái gì đã được biết không là sự thật. Vì vậy cái trí phải đơn giản, không bị chất nặng bởi niềm tin, bởi ý tưởng. Và khi có tĩnh lặng, khi không có ham muốn, không có khao khát, khi cái trí tuyệt đối tĩnh lặng cùng một yên lặng không bị thôi thúc, lúc đó sự thật đến. Và sự thật đó, chân lý đó, là tác nhân duy nhất gây thay đổi; nó là yếu tố duy nhất mang lại một cách mạng triệt để, cơ bản trong tồn tại, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Và muốn tìm ra sự thật đó không phải là tìm kiếm nó, nhưng hiểu rõ những yếu tố gây kích động cái trí, gây rối ren cho chính cái trí đó. Vậy thì cái trí đơn giản, yên lặng, tĩnh lặng. Trong tĩnh lặng đó, cái không biết được, cái không thể biết, hiện diện. Và khi việc đó xảy ra, có hạnh phúc vô cùng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 7220)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức. Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó.Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?
20/09/2012(Xem: 5322)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
18/09/2012(Xem: 10487)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
06/09/2012(Xem: 3606)
Gần năm tháng nay, hắn đã sống hững hờ như một thây ma; mỗi ngày bắt đầu lại một mặt trời cũ, dâng lên trên những mái nhà một xác thối của mặt trời, ánh sáng của đèn cầy còn dễ thở hơn ánh sáng của mỗi ngày dư máu. Máu ứ đọng lại trong lòng mặt trăng của tư tưởng. Hắn thù ghét sanh từ, động từ “ý thức” và thù ghét cả tính từ “ý thức”.
25/08/2012(Xem: 7855)
Đây là bài nói chuyện của Tỳ Kheo Bodhi trong chương trình Google Techtalks vào ngày 3 /11/2010. Trong phần mở đầu, Tỳ Kheo Bodhi nói rằng Ngài biết anh bạn Quản lý chương trình Techtalks là người thích hài hước, nên Ngài phải chọn một nhan đề mang tính hài hước cho bài nói chuyện này là:“ Cần Có Hai Người Để Nhảy Điệu Tango ”,( vì Ngài e ngại bài nói chuyện của Ngài sẽ tẻ nhạt đối với thính giả). Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc, thì đề tài của buổi nói chuyện này sẽ là: “Tương Lai Nhân Loại và Tương Lai Phật Giáo ”.
02/08/2012(Xem: 14083)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
19/07/2012(Xem: 10609)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
09/07/2012(Xem: 6164)
Giáo pháp về mười hai chi duyên khởi là chung cho tất cả các truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, sự diễn dịch về mười hai chi, những tiến trình của chúng, và đặc biệt sự giải thích về chi thứ nhất, vô minh, học phái Trung Quán giải thích có sai biệt nhiều hơn khi so sánh với các giải thích trong các học phái triết học khác.
15/06/2012(Xem: 5198)
Trong kinh điển Phật giáo , có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một sồ câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế . Đức Phật thấy rõ , những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu , hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ức đoán ; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật . Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng .
05/06/2012(Xem: 28304)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567