Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

12. Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

01/07/201100:59(Xem: 4038)
12. Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Bombay, ngày 8 tháng 2 năm 1948

Người hỏi: Người ta có thể thương yêu sự thật mà không thương yêu con người hay không? Người ta có thể thương yêu con người mà không thương yêu sự thật hay không? Cái nào đến trước?

K: Chắc chắn, thưa bạn, tình yêu đến trước. Bởi vì muốn thương yêu sự thật bạn phải biết sự thật, và biết sự thật là phủ nhận nó. Cái gì đã được biết không là sự thật bởi vì cái gì đã được biết đã bị bao phủ trong thời gian; vì vậy nó ngừng là sự thật. Sự thật trong chuyển động liên tục và vì vậy không thể được đo lường trong thời gian hay trong những từ ngữ; nó không thể bị nhốt chặt trong nắm tay của bạn. Vì vậy thương yêu sự thật là biết sự thật – bạn không thể thương yêu một cái gì đó mà bạn không biết. Nhưng sự thật không phải được tìm kiếm trong những quyển sách, trong tôn thờ những hình tượng, trong những đền chùa. Nó phải được tìm thấy trong hành động, trong đang sống, trong đang suy nghĩ; và vì vậy tình yêu đến trước – điều đó rõ ràng, tìm kiếm cái không biết được chính là tình yêu, và bạn không thể tìm kiếm cái không biết được nếu không ở trong liên hệ với những người khác. Bạn không thể tìm ra sự thật, Thượng đế, hay bất kỳ điều gì bạn muốn, bằng cách rút vào cô lập. Bạn có thể tìm ra cái không biết được chỉ trong liên hệ, chỉ khi con người liên hệ với con người. Vì vậy tình yêu con người là sự tìm kiếm sự thật.

Nếu không thương yêu con người, nếu không thương yêu nhân loại, không thể nào có một tìm kiếm sự thật; bởi vì khi tôi biết bạn – ít nhất khi tôi cố gắng biết bạn trong liên hệ – trong liên hệ đó tôi đang khởi đầu biết chính mình. Liên hệ là một cái gương trong đó tôi đang tự khám phá chính mình, không phải cái tôi “cao hơn” của tôi, nhưng tiến hành trọn vẹn, tổng thể của chính tôi. Cái tôi “cao hơn” và cái tôi “thấp hơn” vẫn còn trong lãnh vực của cái trí; và nếu không hiểu rõ cái trí, người suy nghĩ, làm thế nào tôi có thể vượt khỏi tư tưởng, và khám phá? Chính liên hệ là tìm kiếm sự thật bởi vì đó là cách tiếp xúc duy nhất tôi có với chính bản thân tôi; vì vậy hiểu rõ về chính tôi trong liên hệ là khởi đầu của sống, chắc chắn như vậy. Nếu tôi không biết làm thế nào để thương yêu bạn, bạn là người tôi đang liên hệ, làm thế nào tôi có thể tìm kiếm sự thật, và vì vậy thương yêu sự thật? Nếu không có bạn, tôi không hiện hữu, đúng chứ? Tôi không thể tồn tại tách rời khỏi bạn, tôi không thể tồn tại trong cô lập. Vì vậy trong liên hệ của chúng ta, trong liên hệ giữa bạn và tôi, tôi đang khởi đầu hiểu rõ chính tôi; và hiểu rõ về chính tôi là khởi đầu của thông minh, phải vậy không? Vì vậy tìm kiếm sự thật là khởi đầu của tình yêu trong liên hệ. Muốn thương yêu một cái gì đó bạn phải biết nó, bạn phải hiểu rõ nó, phải vậy không? Muốn thương yêu bạn tôi phải biết bạn, tôi phải tìm hiểu, tôi phải tìm ra, tôi phải thâu nhận tất cả những tâm trạng của bạn, những thay đổi của bạn, và không phải khép kín chính bản thân tôi trong những tham vọng, những theo đuổi, và những ham muốn của tôi. Và trong biết bạn tôi đang khởi đầu khám phá chính bản thân tôi. Nếu không có bạn, tôi không thể hiện hữu; và nếu tôi không hiểu rõ liên hệ đó giữa bạn và tôi, làm thế nào có thể có tình yêu? Và chắc chắn nếu không có tình yêu không có tìm kiếm, đúng chứ? Bạn không thể nói rằng người ta phải thương yêu sự thật; bởi vì muốn thương yêu sự thật, bạn phải biết sự thật. Bạn biết sự thật không? Bạn biết sự thật là gì không? Ngay khoảnh khắc bạn biết một cái gì đó, nó đã trôi qua rồi, phải không? Nó đã ở trong lãnh vực của thời gian rồi, vì vậy nó ngừng là sự thật.

Vấn đề của chúng ta là: làm thế nào một tâm hồn cằn cỗi, một tâm hồn trống rỗng, biết được sự thật? Nó không thể. Sự thật không là một điều gì đó xa xôi. Nó rất gần gũi, nhưng chúng ta không biết tìm kiếm nó như thế nào. Muốn tìm kiếm nó, chúng ta phải hiểu rõ liên hệ, không chỉ với con người mà còn với thiên nhiên, với những ý tưởng. Tôi phải hiểu rõ liên hệ của tôi với quả đất, và liên hệ của tôi với sự hình thành ý tưởng, cũng như liên hệ của tôi với bạn; và với mục đích hiểu rõ, chắc chắn phải có khoáng đạt. Nếu tôi muốn hiểu rõ bạn, tôi phải khoáng đạt với bạn, tôi phải thâu nhận, tôi không được bám chặt bất kỳ cái gì, không thể có một qui trình cô lập. Trong hiểu rõ có sự thật, và muốn hiểu rõ phải có tình yêu; vì nếu không có tình yêu, không thể có hiểu rõ. Vì vậy không phải con người hay sự thật đến trước, nhưng tình yêu; và tình yêu hiện hữu chỉ trong hiểu rõ liên hệ, mà có nghĩa rằng người ta khoáng đạt trong liên hệ, và vì vậy mở toang đến sự thật. Sự thật không thể được mời mọc, nó phải đến với bạn. Tìm kiếm sự thật là phủ nhận sự thật. Sự thật đến với bạn khi bạn khoáng đạt, khi bạn hoàn toàn không có một rào chắn, khi người suy nghĩ không còn đang suy nghĩ, đang tạo tác, đang sáng chế, khi cái trí rất tĩnh lặng – không bị cưỡng bách, không bị áp lực của thuốc men, không bị thuộc lòng bởi những từ ngữ, bởi lặp lại. Sự thật phải đến. Khi người suy nghĩ tìm kiếm sự thật, anh ấy chỉ đang theo đuổi lợi lộc riêng của anh ấy. Vì vậy sự thật lẩn tránh anh ấy Người suy nghĩ có thể quan sát được chỉ trong liên hệ; và muốn hiểu rõ phải có tình yêu. Nếu không có tình yêu không có tìm kiếm.

Người hỏi: Ông không bao giờ đề cập Thượng đế. Ngài không có vị trí trong những lời giáo huấn của ông à?

K: Bạn nói nhiều về Thượng đế phải không? Những quyển sách của bạn đầy ắp nó. Bạn xây dựng những nhà thờ, những đền chùa, bạn thực hiện những hiến dâng, bạn làm những nghi lễ, tổ chức những thánh lễ, và bạn ngập tràn những ý tưởng về Thượng đế, phải không? Bạn lặp lại những từ ngữ, nhưng những hành động của bạn không có tánh Thượng đế, phải không? Mặc dù bạn tôn thờ điều gì bạn gọi là Thượng đế, những phương cách của bạn, những suy nghĩ của bạn, sự tồn tại của bạn, không có tánh Thượng đế, phải không? Mặc dù bạn lặp lại từ ngữ Thượng đế, bạn bóc lột những người khác, phải không? Bạn có những vị Thượng đế của bạn – Ấn độ giáo, Hồi giáo, Thiên chúa giáo, và những tôn giáo khác. Bạn dựng lên những đền chùa, và bạn càng giàu có bao nhiêu, bạn càng dựng lên những đền chùa nhiều bấy nhiêu. [Tiếng cười]. Đừng cười. Chính bạn muốn làm điều đó – chỉ vì bạn vẫn đang cố gắng trở nên giàu có, đó là tất cả.

Vì vậy bạn rất thân thuộc với Thượng đế, ít ra bằng từ ngữ; nhưng từ ngữ không là Thượng đế, từ ngữ không là sự việc. Chúng ta hãy rất rõ ràng về quan điểm này: từ ngữ không là Thượng đế. Bạn có lẽ sử dụng từ ngữ Thượng đế hay từ ngữ nào khác, nhưng Thượng đế không là từ ngữ mà bạn sử dụng. Bởi vì bạn sử dụng nó, điều đó không có nghĩa rằng bạn biết Thượng đế; bạn chỉ biết từ ngữ. Tôi không sử dụng từ ngữ đó bởi lý do rất đơn giản là bạn biết nó. Điều gì bạn biết không là sự thật. Và ngoài ra, muốn tìm ra sự thật, tất cả những huyên thuyên thuộc từ ngữ của cái trí phải kết thúc, đúng chứ? Bạn có những hình ảnh về Thượng đế, nhưng hình ảnh không là Thượng đế, chắc chắn như thế. Làm thế nào bạn có thể biết được Thượng đế? Rõ ràng không qua một hình ảnh, không qua một đền chùa. Muốn thâu nhận Thượng đế, cái không biết được, cái trí phải là cái không biết được. Nếu bạn theo đuổi Thượng đế, vậy thì bạn đã biết Thượng đế rồi, bạn biết cái kết thúc. Bạn biết cái gì bạn đang theo đuổi, phải không? Nếu bạn tìm kiếm Thượng đế, bạn phải biết Thượng đế là gì; nếu không bạn sẽ không tìm kiếm Ngài, phải không? Bạn tìm kiếm Ngài hoặc tùy theo những quyển sách của bạn, hoặc tùy theo những cảm thấy của bạn, và những cảm thấy của bạn chỉ là sự phản hồi của ký ức. Vì vậy cái bạn tìm kiếm đã được tạo tác trước rồi, hoặc nhờ vào ký ức hoặc bởi nghe người ta nói, và cái được sáng chế không là cái vĩnh cửu – nó là sản phẩm của cái trí. Nếu không có những quyển sách, nếu không có những vị đạo sư, không có những công thức để được lặp lại, bạn chỉ biết đau khổ và hạnh phúc, phải không? – đau khổ và sầu muộn liên tục, và những khoảnh khắc hiếm hoi của hạnh phúc. Và thế là bạn muốn biết tại sao bạn đau khổ. Bạn không thể tẩu thoát đến Thượng đế – nhưng bạn có thể tẩu thoát trong những phương cách khác, và chẳng mấy chốc sáng chế những vị Thượng đế như một tẩu thoát. Nhưng nếu bạn thực sự muốn hiểu rõ toàn qui trình của đau khổ, như một con người mới mẻ, một con người trong sáng, đang tìm hiểu và không đang tẩu thoát, vậy thì bạn sẽ làm tự do chính bạn khỏi đau khổ, vậy thì bạn sẽ tìm ra sự thật là gì, Thượng đế là gì. Nhưng một con người trong đau khổ không thể tìm ra Thượng đế hay sự thật; sự thật có thể tìm được chỉ khi nào đau khổ kết thúc, khi có hạnh phúc, không phải như một tương phản, không phải như một đối nghịch, nhưng trạng thái tồn tại đó mà không có những đối nghịch.

Vì vậy cái không biết được, cái đó mà không bị sáng chế bởi cái trí, không thể được hình thành bởi cái trí. Cái không biết được không thể được suy nghĩ về nó. Khoảnh khắc bạn suy nghĩ về cái không biết được, nó là cái đã được biết rồi. Chắc chắn bạn không thể suy nghĩ về cái không biết được, đúng chứ? Bạn chỉ có thể suy nghĩ về cái đã được biết. Tư tưởng chuyển động từ cái đã được biết sang cái đã được biết; và cái gì đã được biết không là sự thật, đúng chứ? Vì vậy, khi bạn suy nghĩ và thiền định, khi bạn ngồi xưống và suy nghĩ về Thượng đế, bạn chỉ suy nghĩ về cái gì đã được biết, và cái gì đã được biết ở trong thời gian; nó bị trói buộc trong mạng lưới của thời gian, và vì vậy không là sự thật. Sự thật có thể hiện diện chỉ khi nào cái trí được tự do khỏi mạng lưới của thời gian. Khi cái trí không còn tạo tác, có sáng tạo. Đó là cái trí phải tuyệt đối tĩnh lặng, nhưng không phải với một trạng thái chết lặng bị thôi miên, bị kích thích, đó chỉ là một kết quả. Cố gắng để trở nên tĩnh lặng vì mục đích trải nghiệm sự thật là một hình thức khác của tẩu thoát. Có tĩnh lặng chỉ khi nào mọi vấn đề đã kết thúc. Như cái ao lặng yên khi cơn gió ngừng lại, vì vậy cái trí tự nhiên tĩnh lặng khi người kích động, người suy nghĩ, không còn. Muốn kết thúc người suy nghĩ, tất cả những suy nghĩ mà anh ấy sáng chế phải được nở hoa. Thật không tốt gì khi dựng lên một rào chắn, một kháng cự lại suy nghĩ, bởi vì những suy nghĩ phải được thấy trọn vẹn.

Khi cái trí tĩnh lặng, sự thật, cái không thể diễn tả được, hiện diện. Bạn không thể mời mọc nó. Muốn mời mọc nó, bạn phải biết nó, và cái gì đã được biết không là sự thật. Vì vậy cái trí phải đơn giản, không bị chất nặng bởi niềm tin, bởi ý tưởng. Và khi có tĩnh lặng, khi không có ham muốn, không có khao khát, khi cái trí tuyệt đối tĩnh lặng cùng một yên lặng không bị thôi thúc, lúc đó sự thật đến. Và sự thật đó, chân lý đó, là tác nhân duy nhất gây thay đổi; nó là yếu tố duy nhất mang lại một cách mạng triệt để, cơ bản trong tồn tại, trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Và muốn tìm ra sự thật đó không phải là tìm kiếm nó, nhưng hiểu rõ những yếu tố gây kích động cái trí, gây rối ren cho chính cái trí đó. Vậy thì cái trí đơn giản, yên lặng, tĩnh lặng. Trong tĩnh lặng đó, cái không biết được, cái không thể biết, hiện diện. Và khi việc đó xảy ra, có hạnh phúc vô cùng.

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
04/06/2024(Xem: 2750)
Cùng toàn thể giới tử thọ trì Bát quan trai giới một ngày một đêm tại trú xứ Tăng già-lam Phước duyên, thành phố Huế, hiện diện quý mến. Một ngày một đêm quý vị ở trong Tịnh giới với niềm tin thanh tịnh, kiên cố, bất hoại đối với Tam bảo. Nhờ niềm tin này mà quý vị không để cho Giới pháp của mình bị sứt mẻ ở trong đi, ở trong đứng, ở trong nằm, ở trong ngồi, ở trong sự nói năng, giao tiếp. Quý vị có được niềm tin này là nhờ quý vị nuôi lớn sáu tính chất của Tam bảo, khiến cho ba nghiệp của quý vị được an tịnh, an tịnh về thân hành, an tịnh về ngữ hành, an tịnh về ý hành. Sáu tính chất của Tam bảo, quý vị phải thường quán chiếu sâu sắc, để thể nhập và tạo ra chất liệu cho chính mình, ngay đời này và đời sau. Sáu tính chất của Tam bảo gồm:
27/05/2024(Xem: 710)
Theo quan niệm của Phật giáo, Khổ (zh. 苦, sa. duḥkha, pi. dukkha) là cơ sở quan trọng của Tứ Diệu Đế. Chúng ta thường nghe nói, “Đời Là Bể Khổ.” Phật Giáo phân loại Khổ rất luận lý khoa học: Tam Khổ (Khổ khổ [sa. duḥkha-duḥkha,] Hoại khổ [sa. vipariṇāma-duḥkha,] và Hành khổ [sa. saṃskāra-duḥkha.] Ngoài ra còn có Bát khổ. Sinh – Lão – Bệnh – Tử gọi là tứ khổ. Cộng thêm 4 cái khổ khác nữa là: Ái biệt ly khổ - 愛別離苦(あいべつりく): Yêu nhau mà chia lìa nhau là khổ vậy. Cầu bất đắc khổ - 求不得苦(ぐふとくく): Cầu mà không được chính là khổ vậy. Oán tắng hội khổ - 怨憎会苦(おんぞうえく): Ghét mà phải ra vào gặp mặt hàng ngày là khổ vậy. Ngũ ấm xí thạnh khổ - 五蘊 盛苦(ごうんじょう): No cơm ấm cật quá cũng khổ.
30/04/2024(Xem: 2288)
Những lời trích dẫn trên đây thật đanh thép và minh bạch, chữ vu khống trong câu trích dẫn trên đây trong bản gốc bằng tiếng Pali là chữ abbhācikkhanti (abhi + ā + cikkh + a), các tự điển tiếng Anh dịch chữ này là accusation, calumny, slander…, có nghĩa là kết án, phỉ báng, vu khống…. Thế nhưng trong khi viết lách hay thuyết giảng đôi khi chúng ta không nghĩ đến những lời cảnh giác trên đây của Đức Phật. Sau hơn hai mươi lăm thế kỷ quảng bá, xuyên qua nhiều vùng địa lý, hòa mình với nhiều nền văn minh và văn hóa khác nhau, nền Tư tưởng và Giáo huấn của Đức Phật đã phải trải qua nhiều thử thách, thích ứng với nhiều dân tộc, do đó thật khó tránh khỏi ít nhiều biến dạng và thêm thắt. Thế nhưng thực tế cho thấy trong suốt cuộc hành trình kỳ thú và vĩ đại đó – nếu có thể nói như vậy – nền Tư tưởng và Giáo huấn đó của Đức Phật vẫn đứng vững và đã góp phần không nhỏ trong công trình cải thiện xã hội, nâng cao trình độ văn hóa, tư tưởng và mang lại ít nhất là một chút gì đó lý tưởng hơn, cao đ
30/04/2024(Xem: 2515)
Con người thường hay thắc mắc tại sao mình có mặt ở cõi giới Ta Bà này để chịu khổ triền miên. Câu trả lời thường được nghe là: Để trả nghiệp. Nhưng nghiệp là gì? Và làm sao để thoát khỏi? Then chốt cho câu trả lời được gói ghém trong 2 câu: “Ái bất trọng, bất sanh Ta Bà Niệm bất nhất, bất sanh Tịnh Độ” Có nghĩa là: “Nghiệp ái luyến không nặng, sẽ không tái sanh ở cõi Ta Bà Niệm Phật không nhất tâm, sẽ không vãng sanh về Tịnh Độ”
18/02/2024(Xem: 3031)
Bát Chánh Đạo là con đường thánh có tám chi nhánh: Chánh Tri Kiến, Chánh Tư Duy, Chánh Ngữ, Chánh Nghiệp, Chánh Mạng, Chánh Tinh Tấn, Chánh Niệm và Chánh Định. Đây là con đường trung đạo, là lộ trình kỳ diệu giúp cho bất kể ai hân hoan, tín thọ, pháp thọ trong việc ứng dụng, thời có thể chuyển hóa nỗi khổ, niềm đau thành an lạc, giải thoát, niết bàn. Bát Chánh Đạo là Chơn Pháp vi diệu, là con đường đưa đến khổ diệt, vượt thời gian, thiết thực trong hiện tại, được chư Phật quá khứ, Đức Phật hiện tại và chư Phật tương lai chứng ngộ, cung kính, tán thán và thuyết giảng cho bốn chúng đệ tử, cho loài người, loài trời để họ khai ngộ, đến để mà thấy, và tự mình giác hiểu.
07/02/2024(Xem: 5965)
Từ 1983 đến 1985 khi đang ở Singapore, bận bịu với chương trình nghiên cứu Phật giáo tại Viện Phát triển Giáo Trình, tôi được Tu viện Phật giáo Srilankaramaya và một số đạo hữu mời giảng bốn loạt bài pháp nói về một vài tông phái chính của Phật giáo. Các bài giảng được ưa thích, và nhờ các cố gắng của Ô. Yeo Eng Chen và một số bạn khác, chúng đã được ghi âm, chép tay và in ấn để phát miễn phí cho các học viên. Kể từ đó, các bài pháp khởi đi từ hình thức của các tập rời được ngưỡng mộ và cũng được tái bản. Sau đó, tôi nhận thấy có vẻ hay hơn nếu in ấn bốn phần ấy thành một quyển hợp nhất, và với vài lần nhuận sắc, xuất bản chúng để cho công chúng dùng chung.
20/01/2024(Xem: 2348)
Năm xưa khi Phật thuyết kinh, hoàn toàn dùng khẩu ngữ vì bấy giờ nhân loại chưa có chữ viết (xứ Ấn). Sau khi Phật diệt độ, các đệ tử Phật mới kết tập laị những gì Phật dạy để lưu truyền cho đời sau. Đạo Phật dần dần truyền sang các xứ khác, truyền đến đâu thì kinh điển cũng được phiên dịch sang ngôn ngữ của xứ ấy. Lúc ban đầu kinh Phật được ghi chép bằng tiếng Phạn ( Sancrit, Pali ) sau đó thì dịch sang tiếng: Sinhale, Pakistan, Afghanistan, tiếng Tàu, Thái, Nhật, Hàn, Việt… và sau nữa là tiếng Pháp, Anh, Tây Ban Nha…
20/12/2023(Xem: 2798)
Tiến sĩ Bạch Xuân Phẻ (Bạch X. Khỏe) định cư ở Hoa Kỳ từ năm 1991, hiện đang giảng dạy Hóa học và Hóa học danh dự cho Trường trung học Mira Loma tại thủ phủ Sacramento, CA. Ông quy y với Thiền sư Trừng Quang Thích Nhất Hạnh, có Pháp danh là Tâm Thường Định. Ông đã và đang giảng dạy về Lãnh đạo chánh niệm và phương thức mang chánh niệm vào học đường ở bang California từ năm 2014. Tiến sỹ Bạch cũng giảng dạy cho chương trình huấn luyện giáo viên. Ngoài ra, ông còn tham gia nhiều công việc xã hội trong cộng đồng. Tháng Ba 2023, TS Bạch Xuân Phẻ được Hiệp hội Giáo viên California (California Teachers Association) vinh danh vì những đóng góp giáo dục thực hành chánh niệm của ông. TS Bạch Xuân Phẻ cũng được trao Giải thưởng Nhân quyền người Mỹ gốc Á Thái Bình Dương năm 2023 của bang California (Human Right Awards).
19/12/2023(Xem: 8150)
Cách đây chừng 30 năm, Tổ Đình Viên Giác tại Hannover Đức Quốc chúng tôi có nhận được bộ Đại Chánh Tân Tu Đại Tạng Kinh (Taisho Shinshu Daizokyou) bằng Hán Văn gồm 100 tập do cố Hòa Thượng Thích Tịnh Hạnh từ Đài Loan giới thiệu để được tặng. Bộ Đại Tạng Kinh giá trị này do Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội xuất bản và gửi tặng đến các nơi có duyên. Phật Đà Giáo Dục Cơ Kim Hội dưới sự chứng minh và lãnh đạo tinh thần của cố Hòa Thượng Thích Tịnh Không đã làm được không biết bao nhiêu công đức truyền tải giáo lý Phật Đà qua việc xuất bản kinh điển và sách vở về Phật Giáo, với hình thức ấn tống bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau như: Hoa Ngữ, Anh Ngữ, Pháp Ngữ, Đức Ngữ, Việt Ngữ. Nhờ đó tôi có cơ hội để tham cứu Kinh điển rất thuận tiện.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com