Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

20. New Delhi, ngày 31 tháng 10 năm 1956

01/07/201100:59(Xem: 3601)
20. New Delhi, ngày 31 tháng 10 năm 1956

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

New Delhi, ngày 31 tháng 10 năm 1956

Người hỏi: Làm thế nào tôi có thể trải nghiệm Thượng đế, mà sẽ cho một ý nghĩa đến cuộc sống sầu thảm của tôi. Nếu không có trải nghiệm đó mục đích của sống là gì?

Krishnamurti: Tôi có thể hiểu rõ trực tiếp cuộc sống, hay trải nghiệm một cái gì đó mà sẽ cho một ý nghĩa đến cuộc sống? Các bạn hiểu không, thưa các bạn? Muốn trân trọng vẻ đẹp, tôi phải biết mục đích của nó là gì à? Tình yêu phải có một nguyên nhân hay sao? Và nếu có một nguyên nhân cho tình yêu, nó là tình yêu à? Người hỏi nói anh ấy phải có một trải nghiệm nào đó mà sẽ cho một ý nghĩa đến cuộc sống – mà ngụ ý rằng đối với anh ấy cuộc sống trong chính nó không quan trọng. Vì vậy khi tìm kiếm Thượng đế anh ấy thực sự đang tẩu thoát khỏi cuộc sống, tẩu thoát khỏi đau khổ, khỏi vẻ đẹp, khỏi xấu xa, khỏi tức giận, tầm thường, ganh tị, và ham muốn quyền hành, khỏi sự phức tạp lạ thường của sống. Tất cả việc đó là cuộc sống và vì anh ấy không hiểu rõ nó, anh ấy nói rằng, “Tôi sẽ tìm một cái gì đó lớn lao hơn mà sẽ cho một ý nghĩa vào cuộc sống.”

Làm ơn hãy lắng nghe điều gì tôi đang nói, nhưng không ở mức độ từ ngữ, trí năng, bởi vì nếu như thế nó sẽ chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Bạn có thể vận dụng nhiều từ ngữ quanh tất cả việc này, đọc tất cả những quyển sách thiêng liêng trên mảnh đất này, nhưng nó sẽ vô giá trị bởi vì nó không liên quan đến cuộc sống của bạn, đến sự tồn tại hàng ngày của bạn.

Đang sống của chúng ta là gì? Cái sự việc này mà chúng ta gọi là sự tồn tại của chúng ta là gì? Rất đơn giản, không cần triết lý, nó là một chuỗi những trải nghiệm của vui thú và đau khổ, và chúng ta muốn lẩn tránh những đau khổ trong khi đó bám chặt vào những vui thú. Vui thú của quyền hành, của là một người quan trọng trong thế giới rộng lớn, vui thú của thống trị người chồng hay người vợ nhỏ xíu của người ta, đau khổ, thất vọng, sợ hãi và lo âu mà theo cùng tham vọng, sự xấu xa khi cố gắng là một người quan trọng và vân vân – tất cả điều đó tạo thành đang sống hàng ngày của chúng ta. Đó là, cái gì chúng ta gọi là sống là một chuỗi những kỷ niệm trong lãnh vực của cái đã được biết; và cái đã được biết trở thành một vấn đề khi cái trí không được tự do khỏi cái đã được biết. Đang vận hành trong cái đã được biết – cái đã được biết là hiểu biết, trải nghiệm, và ký ức của trải nghiệm đó – cái trí nói rằng, “Tôi phải biết Thượng đế.” Vì vậy tùy theo truyền thống của nó, tùy theo những ý tưởng của nó, tình trạng bị quy định của nó, nó chiếu rọi một thực thể mà nó gọi là “Thượng đế”; nhưng thực thể đó là kết quả của cái đã được biết; nó vẫn còn trong lãnh vực của thời gian.

Vì vậy bạn có thể tìm ra bằng sự rõ ràng, bằng sự thật, bằng trải nghiệm thực sự liệu có Thượng đế hay không, chỉ khi nào cái trí hoàn toàn được tự do khỏi cái đã được biết. Chắc chắn rằng cái gì đó, mà có lẽ được gọi là Thượng đế hay sự thật, phải hoàn toàn mới mẻ, không thể được công nhận, và một cái trí mà tiếp cận nó qua hiểu biết, qua trải nghiệm, qua những ý tưởng và những đạo đức được tích lũy, đang cố gắng nắm bắt cái không biết được trong khi đang sống trong lãnh vực của cái đã được biết, là một điều không thể được. Mọi việc mà cái trí có thể làm là tìm hiểu liệu có thể được tự do chính nó khỏi cái đã được biết hay không. Tự do khỏi cái đã được biết là tự do hoàn toàn khỏi tất cả những ấn tượng của quá khứ, khỏi toàn gánh nặng của truyền thống. Chính cái trí là sản phẩm của cái đã được biết, nó được gom tụ vào nhau bởi thời gian như cái “tôi” và cái “không tôi”, mà là sự xung đột của có hai. Nếu cái đã được biết hoàn toàn kết thúc, cả tầng ý thức bên ngoài lẫn tầng ý thức bên trong – và tôi nói, không phải lý thuyết, rằng có thể có một kết thúc của nó – vậy thì bạn sẽ không bao giờ hỏi liệu có Thượng đế hay không, bởi vì một cái trí như thế là vô hạn trong chính nó. Giống như tình yêu, nó là vĩnh hằng riêng của nó.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
03/10/2012(Xem: 7221)
Tinh túy của đạo Phật là: nếu có khả năng, ta nên giúp đỡ người khác; nếu không thể giúp họ, thì tối thiểu nên hạn chế việc gây hại cho họ. Đây là tinh túy của cách sống một cuộc đời đạo đức. Mỗi một hành động đều bắt nguồn từ một động cơ. Nếu ta phương hại người khác, điều này bắt nguồn từ một động cơ; và nếu ta giúp đỡ người khác, điều ấy cũng bắt nguồn từ một động cơ. Thế nên, để hỗ trợ hay phục vụ người khác, chúng ta cần một động cơ nào đấy. Vì thế, ta cần các khái niệm nào đó.Tại sao ta lại giúp đỡ và không phương hại người khác?
20/09/2012(Xem: 5322)
Chúng ta đang sống ở một thời đại đặc biệt. Phật pháp bây giờ đã được khắp thế giới biết đến. Phật pháp được thực hành ở những vùng đất mới, trong dân chúng với những truyền thống và mối quan tâm khác nhau. Phật pháp đang đóng góp vào một nền văn hóa mới toàn cầu. Điều này thật thú vị và phấn khích. Và là những Phật tử chúng ta có thể hân hoan khi thấy rằng năng lực chữa trị của lời dạy Đức Phật đang được người ta lắng nghe khắp nơi. Nhưng có một mặt khác của việc phát triển này. Việc truyền bá Phật pháp đến một nền văn hóa mới, đặc biệt khi nền văn hóa đó đang gia tăng ưu thế toàn cầu, tạo ra cho Phật giáo những nguy cơ. Tôi xin nói rõ nguy cơ này. Thế giới hiện đại đã phát triển mà không có sự hiểu biết về Pháp (Dharma). Những thực hành, giá trị và quan điểm hiện đại được đặt cơ sở nơi những khái niệm, sự nhận thức và niềm tin mà chúng thường trái ngược với lời dạy của Đức Phật. Đây là nơi nguy cơ tiềm tàng. Nếu những người phương Tây thích ứng với Phật giáo quá nhanh chóng, nhìn
18/09/2012(Xem: 10488)
Qua bài viết này, người viết mong rằng sẽ góp một phần nhỏ kiến thức về ý nghĩa chân thật về Phật giáo đối với Phật tử đi chùa.
06/09/2012(Xem: 3606)
Gần năm tháng nay, hắn đã sống hững hờ như một thây ma; mỗi ngày bắt đầu lại một mặt trời cũ, dâng lên trên những mái nhà một xác thối của mặt trời, ánh sáng của đèn cầy còn dễ thở hơn ánh sáng của mỗi ngày dư máu. Máu ứ đọng lại trong lòng mặt trăng của tư tưởng. Hắn thù ghét sanh từ, động từ “ý thức” và thù ghét cả tính từ “ý thức”.
25/08/2012(Xem: 7857)
Đây là bài nói chuyện của Tỳ Kheo Bodhi trong chương trình Google Techtalks vào ngày 3 /11/2010. Trong phần mở đầu, Tỳ Kheo Bodhi nói rằng Ngài biết anh bạn Quản lý chương trình Techtalks là người thích hài hước, nên Ngài phải chọn một nhan đề mang tính hài hước cho bài nói chuyện này là:“ Cần Có Hai Người Để Nhảy Điệu Tango ”,( vì Ngài e ngại bài nói chuyện của Ngài sẽ tẻ nhạt đối với thính giả). Nhưng nếu nói một cách nghiêm túc, thì đề tài của buổi nói chuyện này sẽ là: “Tương Lai Nhân Loại và Tương Lai Phật Giáo ”.
02/08/2012(Xem: 14085)
Phước thiện thuộc về danh pháp (nāmadhamma) hay thuộc về thiện tâm, không phải vật chất, nên khó thấy, khó biết, chỉ có bậc có trí tuệ, có thần thông mới có thể biết người nào có phước thiện.
19/07/2012(Xem: 10609)
Trí tuệ Phật giáo là một khả năng, một phẩm tính của tâm thức, tượng trưng cho một sự hiểu biết, nhưng là một sự hiểu biết chuyên biệt, được định hướng rõ rệt...
09/07/2012(Xem: 6164)
Giáo pháp về mười hai chi duyên khởi là chung cho tất cả các truyền thống Phật giáo. Tuy nhiên, sự diễn dịch về mười hai chi, những tiến trình của chúng, và đặc biệt sự giải thích về chi thứ nhất, vô minh, học phái Trung Quán giải thích có sai biệt nhiều hơn khi so sánh với các giải thích trong các học phái triết học khác.
15/06/2012(Xem: 5200)
Trong kinh điển Phật giáo , có nhiều trường hợp mô tả Đức Phật đã giữ thái độ im lặng trước một sồ câu hỏi của các du sĩ ngoại đạo mang tính huyền hoặc hoặc thiếu thực tế . Đức Phật thấy rõ , những người đặt các câu hỏi như thế thì hoặc chính bản thân họ không hiểu , hoặc họ chỉ nhằm khoe khoang kiến thức qua những tưởng tượng hay ức đoán ; và nếu có trả lời thì tính hạn chế của ngôn ngữ cũng khiến mọi giải thích không thể diễn tả rốt ráo mọi điều thấy biết của Đức Phật . Vì thế mà Đức Phật chỉ im lặng .
05/06/2012(Xem: 28336)
Mới đây theo công trình nghiên cứu của giáo sư Eric Sharp thuộc Đại học Sydney, Australia, trong số những thánh nhân của thế kỷ thứ 20 này, có ba thánh nhân người châu Á. Đó là cố thi hào Ấn Độ Rabindranath Tagore (1861-1941), Thánh Mahatma Gandhi (1869 - 1948) và một vị hiện sống là Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 (1935-?). Vâng, Tenzin Gyatso, Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ 14 hiện nay được nhiều nơi trên thế giới công nhận là một hóa thân Quan Âm và một bậc thầy tâm linh vĩ đại của nhân loại
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567