Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. quangduc@quangduc.com* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

6. Từ quyển: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Chương 28

01/07/201100:59(Xem: 3610)
6. Từ quyển: Tự do đầu tiên và cuối cùng, Chương 28

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Tự Do Đầu Tiên và Cuối Cùng – Chương 28

Người hỏi: Cái trí của chúng ta chỉ biết cái đã được biết. Điều gì trong chúng ta mà thúc đẩy chúng ta tìm ra cái không biết được, sự thật, Thượng đế?

Krishnamurti:Cái trí của bạn giục giã hướng về cái không biết được à? Có một thôi thúc trong chúng ta để tìm kiếm cái không biết được, tìm kiếm sự thật, tìm kiếm Thượng đế? Làm ơn hãy suy nghĩ nó nghiêm túc. Đây không là một câu nói hoa mỹ; thực sự chúng ta hãy tìm ra. Liệu có một giục giã bên trong mỗi người chúng ta để tìm ra cái không biết được? Có hay không? Làm thế nào bạn có thể tìm ra cái không biết được? Nếu bạn không biết nó, làm thế nào bạn có thể tìm ra nó? Liệu có một thôi thúc để tìm kiếm sự thật, hay nó chỉ là một ham muốn cho cái đã được biết mở rộng ra? Bạn hiểu điều gì tôi nói không? Tôi đã biết nhiều sự việc; chúng đã cho tôi nhiều hạnh phúc, thỏa mãn, hân hoan. Vì vậy bây giờ tôi đang muốn một cái gì khác nữa mà sẽ cho tôi hân hoan lớn hơn, hạnh phúc lớn hơn, sinh lực lớn hơn – bất kỳ điều gì bạn muốn. Liệu cái đã được biết, mà là cái trí của tôi – bởi vì cái trí của tôi là cái đã được biết, kết quả của quá khứ – liệu cái trí đó có thể tìm được cái không biết được? Nếu tôi không biết sự thật, làm thế nào tôi có thể tìm được nó? Chắc chắn nó phải đến, tôi không phải tìm kiếm nó. Nếu tôi tìm kiếm nó, tôi đang tìm kiếm một cái gì đó mà là cái đã được biết, được chiếu rọi bởi tôi.

Vấn đề của chúng ta không phải cái gì trong chúng ta mà thúc đẩy chúng ta tìm ra cái không biết được. Điều đó rõ ràng rồi; chính ham muốn riêng của chúng ta để được an toàn hơn, bền vững hơn, cố định hơn, hạnh phúc hơn; để tẩu thoát khỏi rối loạn, khỏi đau khổ, hoang mang. Đó là động cơ rõ ràng của chúng ta. Khi có động cơ đó, thúc giục đó, bạn sẽ tìm ra một tẩu thoát tuyệt vời, một nơi trú ẩn tuyệt vời – trong Phật, trong Chúa, hay trong những khẩu hiệu chính trị và mọi việc như thế. Đó không là sự thật; đó không là cái không thể biết được, cái không biết được. Vì vậy sự thôi thúc tìm kiếm cái không biết được phải kết thúc, sự tìm kiếm cái không biết được phải ngừng lại, mà có nghĩa rằng phải hiểu rõ cái đã được biết đang tích lũy, mà là cái trí. Cái trí phải hiểu rõ chính nó như cái đã được biết, bởi vì đó là tất cả mà nó biết. Bạn không thể suy nghĩ về một điều gì đó mà bạn không biết. Bạn chỉ có thể suy nghĩ về một điều gì đó mà bạn biết.

Khó khăn của chúng ta là làm cho cái trí không chuyển động trong cái đã được biết; điều đó chỉ có thể xảy ra khi cái trí hiểu rõ chính nó và tất cả chuyển động của nó như thế nào từ quá khứ, đang chiếu rọi chính nó qua hiện tại đến tương lai. Nó là một chuyển động liên tục của cái đã được biết. Liệu chuyển động đó có thể kết thúc? Nó có thể kết thúc chỉ khi nào hệ thống máy móc thuộc qui trình riêng của nó được hiểu rõ, chỉ khi nào cái trí tự hiểu rõ chính nó và những công việc của nó, những phương cách của nó, những mục đích của nó, những theo đuổi của nó, những đòi hỏi của nó – không chỉ những đòi hỏi giả tạo nhưng những thôi thúc và những động cơ sâu thẳm bên trong. Đây là một công việc quá gian nan. Không chỉ trong một cuộc gặp gỡ hay tại một buổi diễn thuyết hay bằng cách đọc một quyển sách mà bạn sẽ tìm được. Trái lại, nó cần tỉnh thức liên tục, canh chừng liên tục mọi chuyển động của tư tưởng, không chỉ khi bạn thức giấc mà còn khi bạn đang ngủ. Nó phải là một tiến hành tổng thể, không phải một tiến hành từng phần, rời rạc.

Cũng vậy, ý định phải đúng đắn. Đó là, phải có một kết thúc của mê tín rằng bên trong tất cả chúng ta đều ao ước cái không biết được. Chính là một ảo tưởng khi nghĩ rằng tất cả chúng ta đang tìm kiếm Thượng đế; chúng ta không như vậy. Chúng ta không phải tìm kiếm ánh sáng. Sẽ có ánh sáng khi không còn bóng tối, và qua bóng tối chúng ta không thể tìm được ánh sáng. Mọi điều chúng ta có thể làm là cởi bỏ những rào chắn tạo ra bóng tối đó, và sự cởi bỏ đó tùy thuộc vào ý định. Nếu bạn đang cởi bỏ chúng với mục đích thấy ánh sáng, vậy thì bạn đang không cởi bỏ bất kỳ thứ gì cả, bạn chỉ đang thay đổi từ ngữ ánh sáng cho bóng tối. Thậm chí khi nhìn vượt khỏi bóng tối là một tẩu thoát khỏi bóng tối.

Chúng ta phải xem xét không phải cái gì đang thúc đẩy chúng ta, nhưng tại sao chúng ta lại có hoang mang như thế, hỗn loạn như thế, xung đột và hận thù như thế – tất cả những ngu xuẩn trong sự hiện hữu của chúng ta. Khi những điều này không còn, vậy thì có ánh sáng, chúng ta không phải tìm kiếm nó. Khi ngu dốt không còn nữa, có thông minh. Nhưng con người ngu dốt mà cố gắng trở nên thông minh vẫn còn ngu dốt. Ngu dốt không bao giờ có thể chuyển thành thông minh; chỉ khi nào ngu dốt biến mất mới có trí tuệ, thông minh. Con người ngu dốt và cố gắng trở thành thông minh, trí tuệ, rõ ràng không bao giờ có thể như thế. Muốn thấy điều gì là ngu dốt người ta phải thâm nhập vào nó, không phải hời hợt, nhưng trọn vẹn, tổng thể, sâu thẳm, thâm sâu; người ta phải thâm nhập mọi tầng khác nhau của ngu dốt, và khi có sự kết thúc của ngu dốt đó, có thông minh.

Vì vậy rất quan trọng phải tìm ra không phải liệu có một cái gì đó nhiều hơn, một cái gì đó to tát hơn cái đã được biết, mà đang thôi thúc chúng ta đến cái không biết được, nhưng trong chúng ta phải thấy được cái gì đang tạo ra hoang mang, những cuộc chiến tranh, những phân biệt giai cấp, sự hợm hĩnh, theo đuổi sự nổi tiếng, sự tích lũy hiểu biết, sự tẩu thoát qua âm nhạc, qua nghệ thuật, qua quá nhiều phương cách. Chắc chắn, rất quan trọng, phải thấy chúng như chúng là và quay trở lại chính chúng ta như chúng ta là. Từ đó chúng ta có thể tiến tới. Vậy thì quẳng đi cái đã được biết tương đối dễ dàng. Khi cái trí yên lặng, khi nó không còn đang chiếu rọi chính nó vào tương lai, ao ước một điều gì đó, khi cái trí hoàn toàn tĩnh lặng, hoàn toàn an bình, cái không biết được hiện hữu. Bạn không phải tìm kiếm nó. Bạn không thể mời mọc nó. Cái bạn có thể mời mọc chỉ là cái bạn biết. Bạn không thể mời mọc một người khách không biết được. Bạn chỉ có thể mời mọc người mà bạn biết rồi. Nhưng bạn không biết cái không biết được, Thượng đế, sự thật, hay cái gì bạn muốn. Nó phải đến. Nó có thể đến chỉ khi nào cánh đồng thích hợp, khi đất màu được cày xới, nhưng nếu bạn cày xới để mong ngóng nó đến, vậy thì bạn sẽ không có nó.

Vấn đề của chúng ta không phải làm thế nào để tìm kiếm cái không thể biết được, nhưng hiểu rõ những qui trình tích lũy của cái trí mà luôn luôn là cái đã được biết. Đó là một công việc gian nan; nó đòi hỏi chú ý liên tục, một tỉnh thức liên tục mà trong đó không có ý thức của xao lãng, của nhận dạng, của chỉ trích; nó đang ở cùng cái gì là. Vậy thì chỉ lúc đó cái trí mới có thể tĩnh lặng. Không phương pháp thiền định, kỷ luật nào có thể làm cho cái trí tĩnh lặng – trong ý nghĩa thực sự của từ ngữ. Chỉ khi nào những cơn gió ngừng lại mặt hồ mới trở nên yên lặng. Bạn không thể làm cho cái hồ yên lặng. Công việc của chúng ta không là theo đuổi cái không thể biết được, nhưng hiểu rõ sự hoang mang, hỗn loạn, đau khổ, trong chính chúng ta. Và rồi cái đó lặng lẽ hiện diện mà trong đó có hân hoan.
Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
14/12/2022(Xem: 2164)
Đạo đức và Luân lý chẳng những là nền tảng của mọi tôn giáo, mà còn là nền tảng của mọi xã hội loài người. Một xã hội sẽ không hoạt động hoặc phát triển nếu không có Đạo đức và Luân lý; nó sẽ không chịu nổi sự hỗn loạn và bạo lực. Đạo đức và Luân lý cũng đóng vai trò là hệ thống giá trị mà từ đó luật pháp và công lý được hình thành, cùng với các định nghĩa của chúng ta về đúng và sai. Một hệ thống Đạo đức và Luân lý không chỉ tạo ra hòa bình và trật tự trên thế giới này, nó còn cung cấp một mục đích trong cuộc sống. Sống có Đạo đức và Luân lý cho chúng ta cảm giác thành một ơn gọi cao hơn có thể mang bản chất tâm linh, cho phép chúng ta trải nghiệm sự siêu việt vượt qua những cám dỗ vật chất trần tục.
02/11/2022(Xem: 18687)
Đức Phật thuyết giảng giáo nghĩa Đại thừa vì tám lý do, được nêu lên ở trong bài kệ của Đại thừa trang nghiêm kinh luận: "Bất ký diệc đồng hành Bất hành diệc thành tựu Thể, phi thể, năng trị Văn dị bát nhân thành". Bài kệ này nêu lên tám lý do, tám bằng chứng kinh điển Đại thừa là do đức Phật nói chứ không phải là ai khác. Hàng Thanh văn không đủ khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Hàng Duyên giác không có khả năng để nói đến kinh điển Đại thừa. Bồ tát cũng chưa đủ sự toàn giác để nói kinh điển Đại thừa. Còn đối với ngoại đạo thì đương nhiên không thể nói được một từ nào ở trong kinh điển Đại thừa. Có nhiều vị cố chấp, thiên kiến nói rằng kinh điển Đại thừa do ngoại đạo tuyên thuyết; nói như vậy là hồ đồ, không có luận cứ. Tu tập đến cỡ như hàng Thanh văn, hàng Duyên giác mà còn không nói được kinh điển Đại thừa thì làm gì cái đám ngoại đạo chấp ngã, chấp trước, chấp danh, chấp lợi mà nói được kinh điển Đại thừa. Cho nên nói kinh điển Đại thừa do ngoại đạo nói, đó
02/11/2022(Xem: 14306)
Bấy giờ, tôi khoảng chín tuổi, một hôm đi xem đưa đám tang ông Võ Hờ trong xóm, thấy mọi người đi sau đám tang đều khóc nức nở và tức tối. Thấy họ khóc, tôi cũng khóc, nhưng bấy giờ tôi không biết tại sao tôi lại khóc như vậy.
31/10/2022(Xem: 12579)
SOTAPATTI, quả vị Dự lưu, là cấp bậc đầu tiên trong bốn cấp bậc giác ngộ được đề cập trong Phật giáo Sơ kỳ. Tên gọi của quả vị nầy là từ ý nghĩa của một hành giả nhập vào dòng chảy không thối chuyển (sotāpanna, thánh Dự lưu) đưa đến giải thoát hoàn toàn. Dòng chảy nầy chính là đường thánh tám chi (Bát chi Thánh đạo, SN 55:5, kinh Sāriputta), là dòng sông hướng đến Niết-bàn cũng giống như sông Hằng chảy ra biển cả (SN 45:91, kinh Phương đông). Thời gian cần thiết để dòng sông nầy tiến đến mục tiêu tối hậu là tối đa bảy kiếp sống, không kiếp nào tái sinh trong cõi giới thấp hơn cõi người (SN 55:8, kinh Giảng đường bằng gạch).
29/10/2022(Xem: 6738)
Nhận tin nhắn trễ trên Viber sau khi đã ra khỏi nhà, và mãi đến trưa con mới trở về nên con chỉ nghe lại bài phỏng vấn này do TT Thích Nguyên Tạng có nhã ý cho chúng đệ tử học hỏi thêm giáo lý Phật Pháp trước khi Ngài trở về trú xứ Hoa Kỳ sau 3 tuần tham dự Lễ Hiệp Kỵ Lịch Đại Tổ Sư và Lễ Mừng 32 năm Khai Sơn Tu Viện Quảng Đức, vào trước giờ có pháp thoại của Tổng Vụ Hoằng Pháp và Giáo Dục của Giáo Hội Úc Châu cùng ngày. Tuy nhiên với sự ngưỡng mộ của con đối với bậc cao tăng trí tuệ viên minh, diệu huyền thông đạt như Ngài, mà những lời Ngài trình bày qua những kinh nghiệm tu chứng hành trì, hạnh giải tương ưng thu thập được trong suốt hơn 46 năm qua đã khiến con phấn chấn tu tập hơn, hầu đạt được mục đích tối cao mà Đức Phật đã truyền trao nên con đã nghe lại đôi lần vào hôm nay để có thể uống được cam lồ qua những lời đáp trao đổi Phật Pháp. Thành kính tri ân TT Thích Nguyên Tạng và HT Thích Đồng Trí và kính xin phép cho con chia sẻ lại những gì con đã học được.
13/07/2022(Xem: 8858)
Phải nói là khi nhận được tin TT Giảng Sư Thích Nguyên Tạng sẽ có bài pháp thoại giảng tại Thiền Lâm Pháp Bảo hôm nay (12/7/2022) lại vừa nghe tin tức mưa lớn và lụt tràn về Sydney mấy ngày qua, thế mà khi nhìn vào màn ảnh livestream lại thấy khuôn viên thiền môn trang nghiêm thanh tịnh quá, dường như thời tiết khí hậu chẳng hề lay động đến nơi chốn này, nơi đang tập trung những người con cầu tiến muốn hướng về một mục đích mà Đức Phật hằng mong chúng ta đạt đến : Vô Sanh để thoát khỏi vòng sinh tử .
15/06/2022(Xem: 7858)
Tôi thật chưa tìm ra cuốn nào như cuốn này, tác giả viết từ những năm 50s, hữu duyên được dịch ra tiếng Việt vào những năm 80s… Tìm lại được bản thảo sau khoảng 33 năm (2021). Tốn thêm một năm hiệu đính trên đường ta bà, gọt dũa lại.
07/12/2021(Xem: 4423)
Triết học Phật giáo và Cơ học Lượng tử luôn có sự hỗ tương cho nhau. * Sự kỳ lạ của Cơ học Lượng tử đến mức thách thức các nhà khoa học và triết học tìm hiểu một số nhận thức sâu sắc hơn về bản chất của thực tế. * Một nỗ lực để tìm cách diễn giải Copenhagen, và một số người tin rằng cách lý giải này dựa vào Thế giới quan Phật giáo. * Mặc dù tôi là một Phật tử nhưng tôi phản bác quan điểm vật lý học chứng minh Thế giới quan Phật giáo.
17/11/2021(Xem: 20381)
Nghiệp, phổ thông được hiểu là quy luật nhân quả. Nhân quả cũng chỉ là mối quan hệ về tồn tại và tác dụng của các hiện tượng tâm và vật trong phạm vi thường nghiệm. Lý tính của tất cả mọi tồn tại được Phật chỉ điểm là lý tính duyên khởi.266F[1] Lý tính duyên khởi được nhận thức trên hai trình độ khác nhau. Trong trình độ thông tục của nhận thức thường nghiệm, quan hệ duyên khởi là quan hệ nhân quả. Chân lý của thực tại trong trình độ này được gọi là tục đế, nó có tính quy ước, lệ thuộc mô hình cấu trúc của các căn hay quan năng nhận thức. Nhận thức về sự vật và môi trường chung quanh chắc chắn loài người không giống loài vật. Trong loài người, bối cảnh thiên nhiên và xã hội tạo thành những truyền thống tư duy khác nhau, rồi những dị biệt này dẫn đến chiến tranh tôn giáo.
14/11/2021(Xem: 16793)
Một thuở nọ, Đức Thế Tôn ngự tại xứ Sāvatthi, gần đến ngày an cư nhập hạ suốt ba tháng trong mùa mưa, chư Tỳ khưu từ mọi nơi đến hầu đảnh lễ Đức Thế Tôn, xin Ngài truyền dạy đề mục thiền định, đối tượng thiền tuệ thích hợp với bản tánh của mỗi Tỳ khưu. Khi ấy, có nhóm năm trăm (500) Tỳ khưu, sau khi thọ giáo đề mục thiền định xong, dẫn nhau đến khu rừng núi thuộc dãy núi Himavantu, nơi ấy có cây cối xanh tươi, có nguồn nước trong lành, không gần cũng không xa xóm làng, chư Tỳ khưu ấy nghỉ đêm tại đó. Sáng hôm sau, chư Tỳ khưu ấy dẫn nhau vào xóm làng để khất thực, dân chúng vùng này khoảng một ngàn (1.000) gia đình, khi nhìn thấy đông đảo chư Tỳ khưu, họ vô cùng hoan hỉ, bởi vì những gia đình sống nơi vùng hẻo lánh này khó thấy, khó gặp được chư Tỳ khưu. Họ hoan hỉ làm phước, dâng cúng vật thực đến chư Tỳ khưu xong, bèn bạch rằng: – Kính bạch chư Đại Đức Tăng, tất cả chúng con kính thỉnh quý Ngài an cư nhập hạ suốt ba tháng mùa mưa tại nơi vùng này, để cho tất cả chúng con có
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Senior Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com ; http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
quangduc@quangduc.com , tvquangduc@bigpond.com
KHÁCH VIẾNG THĂM
110,220,567