Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

3. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu Âu năm 1967, London, ngày 30 tháng 9 năm 1967

01/07/201100:59(Xem: 4135)
3. Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu Âu năm 1967, London, ngày 30 tháng 9 năm 1967

J. KRISHNAMURTI
BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ
Nguyên tác: ON GOD - Lời dịch: ÔNG KHÔNG – 2008

BÀN VỀ THƯỢNG ĐẾ

Từ quyển: Những cuộc nói chuyện ở Châu âu năm 1967,
London, ngày 30 tháng 9 năm 1967

Có lẽ rất xứng đáng khi dùng một ít thời gian cố gắng tìm ra liệu cuộc sống có bất kỳ ý nghĩa nào hay không. Không phải cuộc sống mà người ta sống, bởi vì sự tồn tại hiện nay chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Người ta nghĩ ra một ý nghĩa trí năng cho cuộc sống, một ý nghĩa thuộc trí năng, lý thuyết, thần học hay (nếu người ta có thể sử dụng từ ngữ đó) huyền bí cho nó; người ta cố gắng tìm ra một ý nghĩa sâu sắc – như một số tác giả đã làm trong nỗi tuyệt vọng của sự hiện hữu vô vọng này – sáng chế ra lý do thuộc trí năng, sâu sắc, sinh động nào đó. Và dường như đối với tôi nó sẽ xứng đáng hơn nhiều nếu chúng ta có thể tìm ra cho chính chúng ta, không theo cảm tính hay trí năng, nhưng thực sự, thực tế, liệu trong cuộc sống có bất kỳ điều gì thực sự thiêng liêng hay không. Không phải những sáng chế của cái trí mà đã trao một ý nghĩa thiêng liêng cho cuộc sống, nhưng thực sự liệu có một sự việc như thế hay không. Bởi vì người ta quan sát dựa theo lịch sử lẫn thực tế trong sự tìm kiếm này, trong cuộc sống mà người ta đã sống – trải qua kinh doanh, ganh đua, thất vọng, cô độc, lo âu, với sự hủy diệt của chiến tranh và hận thù – cuộc sống như tất cả những điều này chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Chúng ta có lẽ sống bảy mươi năm, trải qua bốn mươi hay năm mươi năm trong văn phòng, với những thói quen, nhàm chán và sự cô độc của nó, mà chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Nhận ra điều đó, cả ở phương Đông lẫn ở đây, sau đó người ta cho ý nghĩa và sự quan trọng đến một biểu tượng, một lý tưởng, một vị Thượng đế – mà rõ ràng là những sáng chế của cái trí. Ở phương Đông họ đã nói rằng cuộc sống là một: đừng giết chóc; Thượng đế tồn tại trong mỗi con người: đừng hủy diệt. Nhưng phút kế tiếp họ đang hủy diệt lẫn nhau, thực sự, bằng từ ngữ, hay trong kinh doanh, và vì vậy ý tưởng cuộc sống là một này, sự thiêng liêng của cuộc sống, chẳng có ý nghĩa bao nhiêu.

Cũng vậy ở phương Tây, nhận ra rằng cuộc sống thực sự là gì – bạo lực, hung hăng tàn khốc của cuộc sống hàng ngày – người ta trao ý nghĩa đến một biểu tượng. Những biểu tượng đó mà mọi tôn giáo đều đặt nền tảng trên nó được nghĩ là rất thiêng liêng. Đó là, những nhà thần học, những vị giáo sĩ, những vị thánh mà đã có những trải nghiệm đặc trưng của họ, đã trao những ý nghĩa cho cuộc sống và chúng ta bám vào những ý nghĩa kia từ tuyệt vọng của chúng ta, từ cô độc của chúng ta, từ lề thói hằng ngày của chúng ta mà chẳng có ý nghĩa bao nhiêu. Và nếu chúng ta có thể gạt đi mọi biểu tượng, mọi hình ảnh, mọi ý tưởng và những niềm tin mà người ta đã dựng lên hàng thế kỷ và với nó người ta đã cho một ý nghĩa thiêng liêng, nếu chúng ta có thể thực sự tháo gỡ tình trạng bị quy định của chúng ta không còn tất cả những sáng chế kỳ lạ này, vậy thì có lẽ chúng ta có thể thực sự tự hỏi chính mình liệu có một cái gì đó là sự thật, thiêng liêng và thánh thiện thực sự. Bởi vì đó là điều gì con người đã tìm kiếm trong những hỗn loạn, vô vọng, tội lỗi, và chết này. Trong nhiều hình thức khác nhau con người đã luôn luôn tìm kiếm sự cảm thấy này về một cái gì đó mà phải vượt khỏi sự ngắn ngủi, vượt khỏi dòng chảy của thời gian. Chúng ta có thể dành chút ít thời gian để tìm hiểu vấn đề này và cố gắng tìm ra cho chính mình liệu có một sự việc như thế hay không? – nhưng không phải điều gì bạn muốn, không phải Thượng đế, không phải một ý tưởng, không phải một biểu tượng. Liệu người ta có thể gạt đi tất cả điều đó và sau đó tìm ra?

Những từ ngữ chỉ là một phương tiện để truyền đạt nhưng từ ngữ không là sự việc. Từ ngữ, biểu tượng không là sự thật, và khi người ta bị trói buộc trong những từ ngữ, vậy thì nó trở nên rất khó khăn để tháo gỡ chính mình khỏi những biểu tượng, những từ ngữ, những ý tưởng mà thực sự ngăn cản trực nhận. Mặc dù người ta phải sử dụng những từ ngữ, nhưng từ ngữ không là sự thật. Vì vậy nếu người ta cũng có thể tỉnh thức, cảnh giác, rằng từ ngữ không là sự thật, vậy thì chúng ta có thể bắt đầu tìm hiểu nghi vấn này rất sâu thẳm. Đó là, con người từ cô độc và tuyệt vọng của anh ấy đã trao tặng sự thiêng liêng đến một ý tưởng, đến một hình ảnh được làm bằng bàn tay hay bằng cái trí. Hình ảnh đó đã trở thành quan trọng cực kỳ đối với người Thiên chúa giáo, người Ấn độ giáo, người Phật giáo, và vân vân, và họ đã đầu tư ý nghĩa của thiêng liêng trong hình ảnh đó. Liệu chúng ta có thể gạt nó đi – không phải bằng từ ngữ, không phải bằng lý thuyết, nhưng thực sự gạt nó đi – hoàn toàn thấy được sự vô ích của một hoạt động như thế? Sau đó chúng ta có thể bắt đầu một nghi vấn. Nhưng không có ai để trả lời, bởi vì bất kỳ nghi vấn căn bản nào mà chúng ta đưa ra cho chính chúng ta không thể được trả lời bởi bất kỳ ai và bởi chính chúng ta. Nhưng điều gì chúng ta có thể làm là đặt nghi vấn và hãy cho phép nghi vấn đó âm ỉ, sôi sục – hãy cho phép nghi vấn đó chuyển động. Và người ta phải có khả năng theo sát nghi vấn đó xuyên suốt. Đó là điều gì chúng ta đang nghi vấn: liệu rằng, vượt khỏi biểu tượng, từ ngữ có bất kỳ cái gì đó thực sự, trung thực, cái gì đó hoàn toàn thánh thiện trong chính nó?

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
05/02/2014(Xem: 20785)
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữu của họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát.
22/01/2014(Xem: 8972)
Trong luận Đại Thừa Khởi Tín có từ “phát thú đạo tướng” , phân tách Tướng Đạo mà tất cả chư Phật chứng đắc, tất cả chư vị Bồ Tát phát tâm tu hành để mau chứng đắc quả vị Phật. Trên có từ “Phát Thú” nghĩa là phát tâm hướng về, cất bước ra đi hướng thẳng về một mục tiêu nhất định gọi là “Thú Hướng”. “Phát Thú Đạo Tướng” nghĩa là phân định các tướng sai khác của sự phát tâm hướng đến Đạo. Đạo tức là Bồ Đề, Niết Bàn mà chư Phật đã chứng đắc. Đó là Bản Giác, Nhất Tâm Chân Như, tự tướng của Nhất
19/01/2014(Xem: 8586)
Khi khảo sát về PHÁT BỒ-ĐỀ TÂM, chúng tôi tự nghĩ, chúng ta cần phải biết Bồ-Đề là gì? Bồ-Đề Tâm là thế nào? Phát Bồ-Đề Tâm phải học theo những Kinh, Luận nào? Vv.v… Tiếng Pãli : bodhi. Dịch là Tri, Đạo, Giác, Trí. Nói theo nghĩa rộng Bồ Đề là Trí Tuệ đoạn tuyệt phiền não thế gian mà thành tựu Niết Bàn. Tức là Trí Giác Ngộ mà Phật, Bồ Tát, Duyên Giác, Thanh Văn đã đạt được ở qủa vị của các Ngài. Trong các loại Bồ Đề nầy, Bồ Đề của Phật là rốt ráo tột bậc, nên gọi là A nậu đa la tam miệu tam Bồ Đề dịch là Vô thượng chánh đẳng chánh giác, Vô thượng chánh biến trí, Vô thượng chính chân đạo, Vô thượng Bồ Đề. Sau khi thành Phật, Đức Thích Ca có giải rằng ngài có đủ ba thể Bồ Đề: 1- Ứng Hóa Phật Bồ Đề: tức là thể Bồ Đề hiện lại trong đời Ngài làm Thái Tử Tất Đạt Đa mà tu hành.
12/01/2014(Xem: 11589)
Johan Galtung là Giáo sư Đại học Hawaii và được mời thỉnh giảng trên 30 Đại học nổi tiếng khắp thế giới. Ông còn là Giám Đốc của Transcend và Peace Research Institute, Olso. Với trên 50 ấn phẩm và 1000 công trình nghiên cứu khoa học về Hoà Binh ông đã nổi danh là người sáng lập cho lĩnh vực Peace Studies. Với những đóng góp to lớn này ông được nhiều giải thưỏng cao qúy. Tác phẩm chính trong lĩnh vực Phật học là „Buddhism: A Quest for Unity and Peace” (1993). Các tiểu tựa là của người dịch.
25/12/2013(Xem: 6854)
Toàn tri toàn giác không thể được phát sinh mà không có nguyên nhân, bởi vì đâu phải mọi thứ luôn luôn là tòan tri toàn giác đâu. Nếu mọi thứ được sinh ra mà không liên hệ đến điều gì khác, chúng có thể tồn tại mà không có sự câu thúc - sẽ không có lý do tại sao mọi thứ không thể là toàn tri toàn giác.
24/12/2013(Xem: 7824)
Phần khảo sát trong Phật Học Từ Điển (đã trích dẫn) viết về Chân Như như sau: “Chân: chân thật, không hư vọng. Như: như thường, không biến đổi, không sai chạy. Chân Như tức là Phật Tánh, cái tánh chân thật, không biến đổi, như nhiên, không thiện, không ác, không sanh không diệt. Cái Chân Như thì đầy đủ nơi Phật. Nó cũng vẫn có nơi chúng sinh. Những chử dưới đều đồng nghĩa, đồng thể với Chân Như: Tự tánh thanh tịnh, Phật tánh, Pháp Thân, Như Lai Tạng, thật tướng, pháp giới, pháp tánh, viên thành thật tánh, Pháp vị.” Trong Duy Thức Luận có viết về ba Chân Như như sau: 1/ Vô tướng Chân Như: Chân Như không tướng; là cái thể của các pháp khắp cả, không có tướng hư chấp. 2/ Vô sanh Chân Như: Chân Như không sanh; các pháp đều do nhân duyên hòa hợp mà sanh ra chứ hẳn là không thật có sanh .
24/12/2013(Xem: 10091)
Theo Phật Học Từ Điển của Đoàn Trung Còn thì : “Thủy Giác: mới tỉnh giác. Cái bổn tánh của hết thảy chúng sanh sẳn có lòng thanh tịnh tự tánh, đủ cái đức vốn chiếu sáng tự thuở nay, đó kêu là Bổn Giác (vốn tỉnh giác sẳn). Cái Bổn Gíac ấy do bề trong ung đúc và nhờ cái duyên ngoài thầy dạy, mới khởi ra cái lòng chán chuyện tham cứu thuận theo bổn giác lần lần sanh ra có trí giác ngộ kêu là Thủy Giác (sau mới tỉnh giác). Bổn Giác đó tức là bốn đức (thường, lạc, ngã, tịnh) vốn thành sẵn vậy. Thủy Giác là bốn đức mới thành ra sau nầy vậy.”
20/12/2013(Xem: 36403)
THIỀN, được định nghĩa, là sự tập-trung Tâm, chú ý vào một đối tượng mà không suy nghĩ về một vấn đề nào khác. Tôi chia THIỀN làm hai loại, Thiền giác ngộ (Meditation for Enlightenment) và Thiền sức khỏe (Meditation for Health). Tập sách nầy chỉ bàn về Thiền sức khỏe mà thôi.
17/12/2013(Xem: 17901)
Thành thật luận 成實論 (Satyasiddhi-śāstra) cũng gọi Tattvasiddhi Śāstra 16 quyển, hoặc 20 quyển, do Ha-lê-bạt-ma (Harivarman) tạo luận, Cưu-ma-la-thập (Kumārạiva) dịch, Đàm Quỹ ghi chép, Đàm Ảnh chỉnh lý, trong khoảng đời Dao Tần, niên hiệu Hoằng Thùy thứ 13 đến 14 (411 ~ 412), thâu lục trong Đại Chính, Đại Tạng Kinh, Tập số 32, kinh số 1647.
17/12/2013(Xem: 8813)
Có sự phân giới của chúng sinh và không phải chúng sinh, và việc quan tâm đến các chúng sinh cùng hành vi tinh thần trong đời sống hằng ngày của chúng ta, cũng có những trình độ khác nhau. Khi chúng ta thức giấc, khi chúng ta mơ ngủ và khi chúng ta ở trong giấc ngủ sâu và rồi thì khi chúng ta bất tỉnh - ở tại mỗi giai tầng, có một trình độ sâu hơn của tâm thức. Rồi thì cũng ngay tại thời điểm lâm chung khi tiến trình của tan biến của tâm thức tiếp tục sau khi hơi thở chấm dứt - tại thời điểm ấy, lại có một trình độ thậm chí sâu hơn của tâm thức. Chúng ta không có kinh nghiệm của những gì xảy ra tại thời điểm lâm chung, nhưng chúng ta thật sự biết những gì là kinh nghiệm thức giấc và mơ ngủ và vào lúc ngủ sâu như thế nào.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]