Tu Viện Quảng Đức105 Lynch Rd, Fawkner, Vic 3060. Australia. Tel: 9357 3544. [email protected]* Viện Chủ: HT Tâm Phương, Trụ Trì: TT Nguyên Tạng   

Hướng đến con đường giải thoát

15/01/201520:29(Xem: 12939)
Hướng đến con đường giải thoát

15.thewayfreedom

VIỆN TRIẾT LÝ VIỆT NAM VÀ TRIẾT HỌC THẾ GIỚI

Tái bản lần thứ nhất

2544-2000

HƯỚNG ĐẾN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT

Nguyên Tác: THE WAY TO FREEDOM

Tác giả: HIS HOLINESS THE DALAILAMA

Dịch giả: NGUYỄN THÚY PHƯỢNG

CẢM TẠ

Con xin thành kính đảnh lễ và tri ân:

-Đức Đạt Lai Lạt Ma,và Hòa Thượng Lhakor cùng Thư Viện Tây Tạng đã hoan hỷ cho phép con được chuyển dịch nguyên tác “The Way to Freedom” từ Anh Ngữ sang Việt Ngữ.

-Hòa Thượng Thinlay Togpyal (Viện Trưởng),Hòa Thượng Lobsang Ngawang (Phó Viện Trưởng),Thượng Tọa Tashi (Giám Học) và tất cả quý thầy của Trường Trung và Đại Học Hiển Mật Tây Tạng Gyudmed đã tích cực cầu nguyện và hỗ trợ tinh thần cho con trong nhiều năm tháng qua.

-Hòa Thượng Thích Đức Nhuận,Cố vấn Chỉ Đạo Viện Hóa Đạo-Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất; một học giả uyên bác đồng thời cũng là tác và dịch giả của nhiều tác phẩm Phật pháp khảo cứu,lịch sử văn hóa giá trị đã bi mẫn đọc và viết lời giới thiệu cho quyển sách này mặc dù Phật sự đa đoan,tuổi già sức yếu.

-Hòa Thượng Thích Quảng Độ,Viện Trưởng Viện Hóa Đạo-Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất,một học giả uyên bác, đồng thời cũng là tác và dịch giả của rất nhiều tác phẩm Phật Học thâm áo đã từ bi, ân cần dạy bảo và khích lệ con trên bước đường tham cầu học hỏi và phụng sự Chánh pháp.

-Thượng Tọa Thích Thiện Trì, Chủ Tịch Hội Đồng Giám Luật kiêm Vụ Trưỏng Vụ Tăng Sự, đồng thời cũng là dịch giả của nhiều kinh sách giá trị đã bi mẫn dìu dắt con quay về nương tựa Tam Bảo.Nguyện cầu Ngài chóng được bình phục,pháp thể khinh an, đạo quả viên thành.

-Thượng Tọa Thích Viên Lý Phụ Tá Phó Viện Trưởng Kiêm phó tổng thư Ký Viện Hóa Đạo,Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất,Tổng Thư Ký Giáo Hội Phật giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ-Văn Phòng II Viện Hóa Đạo; đã từ bi tạo nhiều thắng duyên để dịch phẩm này được hình thành.

Nguyễn Thúy Phượng

Nguyệt Tuệ Huy

2543-1999

LỜI GIỚI THIỆU

Tam tạng thánh điển của đạo Phật trong đó chứa đựng tám vạn bốn nghìn pháp môn vi diệu,tức 84.000 thần dược để chữa trị cho 84.000 căn bệnh “phiền não đau khổ”của chúng sinh và,do đó, đã đem lại niềm an vui,hạnh phúc cho những ai biết tin theo và áp dụng nguồn ánh sáng giáo lý Giác Ngộ Giải Thoát của đạo Phật trong thực tại cuộc sống hằng ngày.

Tác phẩm “HƯỚNG ĐẾN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT”[1]là một tác phẩm lớn của Đức Đạt Lai Lạt Ma có công năng đem sự an lành đến với cuộc đời nên hiện nay, được mọi lớp người trong thế giới đón nhận với tất cả tấm lòng hân hoan,ngưỡng mộ.

Nội dung tác phẩm gồm 10 chương-Trong chương IV,nói về “Cái Chết” chẳng hạn,Ngài dạy:

-Một người tu theo Phật pháp,hằng ngày đều nghĩ đến cái chết;tư duy về niềm đau khổ của nhân loại như về sinh khổ,về lão khổ,về bệnh khổ và về tử khổ.Mỗi một ngày, người tu Mật Tông, đều quán tưởng phải trải qua cả một quá trình chết chóc giống như trong nội tâm,mỗi ngày đều sẽ chết một lần[2]nên khi đối diện với tử thần họ đã chuẩn bị sẵn sàng nên không còn khiếp sợ nữa…

-Đối diện với cái chết,con người sẽ tạo cho mình một đời sống đầy ý nghĩa…

-Khác nào như (một người) sắp phải vượt qua một vùng đất hiểm nguy (cái chết)và đầy sợ hãi…

Vậy khi nói đến cái chết là Ngài có ý khuyến thỉnh con người ở kiếp này hãy chăm làm những việc tốt lành để lấy đó làm tư lương cho kiếp mai sau.

Là Phật tử,phát nguyện tu hành Bồ Tát Đạo thì tự bản thân phải biết quên mình đi…để phụng sự chính pháp, phục vụ chúng sinh; biết đau trước nỗi đau của đồng loại,và vui sau niềm vui của thiên hạ.

…Thẩm định từng ý, từng lời trong toàn bộ tác phẩm HƯỚNG ĐẾN CON ĐƯỜNG GIẢI THOÁT của vị Thánh tăng, ta thấy:mỗi ý,mỗi lời chan hòa tình Thương Yêu nhân loại,chúng sinh khác nào như những đóa sen tỏa hương thơm làm tươi mát những tâm hồn đau khổ,là vầng thái dương làm tan đi những đám mây mù che phủ thế gian.

Nay Phật tử, NGUYỄN THÚY PHƯỢNG Nguyệt Tuệ Huy,phát tâm dịch tác phẩm trên,từ Anh văn sang Việt ngữ, đây cũng là phần đóng góp tinh anh của mình trong sự nghiệp “hoằng pháp lợi sinh”,tôi xin nhất tâm tán dương công đức và trân trọng giới thiệu cùng toàn thể quý vị độc giả.

Viết tài chùa Giác Minh, Sàigòn, tháng trọng xuân, Phật lịch 2543-DL.1999

Thích Đức Nhuận

ĐẠO NGÔN

Tu học và hành trì giáo pháp của Phật dạy là dấn bước vào một cuộc chiến đối kháng giữa hai lực lượng tiêu cực của nội tâm.Hành giả cần truy cầu để khai trừ mặt tiêu cực và phát huy tiềm năng của mặt tích cực.Những giáo pháp trong quyển sách này nhằm mục đích chuyển hóa tâm thức; do vậy,chỉ cần duyệt đọc hay lắng nghe một đoạn nhỏ thôi cũng đủ mang đến một sự lợi lạc vô cùng to lớn.

Đã không có khắc độ cụ thể nào có thể dùng để đo lường tiến trình tranh chấp giữa lực lượng tích cực và tiêu cực trong tâm thức.Sự chuyển biến sẽ bắt đầu kể từ khi bạn tự tri nhận được những phiền não của chính mình,chẳng hạn như lòng sân hận và tị hiềm.Vì thế,con người cần phải có trình độ tri nhận và ý thức cách diệt trừ những phiền não; loại tri thức đó có được là do sự lắng nghe từ giáo pháp.Không có bất cứ một phương pháp đơn giản nào để diệt trừ phiền não cả. Không thể dùng thủ thuật ngoại khoa để cắt bỏ chúng.Chúng cần phải được tri nhận.Sau đó,xuyên qua sự dụng công thực tập và hành trì theo giáo pháp thì phiền não sẽ dần dần giảm thiểu và cuối cùng sẽ hoàn toàn bị đoạn diệt.

Các giáo pháp này đã cung cấp những phương thức để con người tìm được giải thoát ngay từ trong phiền não-con đường đã thật sự đưa dẫn đến giải thoát mọi khổ đau và đạt được sự an lạc tự tại của quả vị cứu cánh giác ngộ (the bliss of enlightenment).Khi con người càng hiểu Phật pháp bao nhiêu thì sự ôm giữ tính kiêu căng,sân hận,gian tham và những tình cảm tiêu cực đã từng gây ra nhiều đau khổ trước kia cũng sẽ giảm thiểu bấy nhiêu.Nếu áp dụng sự hiểu biết này vào đời sống thường nhật thì nội tâm sẽ dần dần được chuyển biến trong khi mình tưởng chừng như trái ngược lại.Nếu bạn có thể so sánh giữa trạng thái tâm thức hiện tại và tâm thức sau khi đọc xong quyển sách này, có lẽ bạn sẽ tìm thấy một vài thay đổi tiến triển.Nếu quả đúng như vậy thì những lời dạy này đã đạt được mục đích của nó.

Tại đây,hơn 2500 năm trước,trong một kiếp, Đức Phật đã thị hiện thành Đức Thích Ca Mâu Ni Thế Tôn,một bậc trí giả của dòng tộc Thích Ca.Ngài đã xuất gia như một vị sa môn,trải qua một quá trình tu tập du già (yoga) một cách gian khổ.Ngài đã đạt được quả vị giác ngộ viên mãn khi thiền tọa dưới một cội cây ở một địa danh phía bắc Ấn Độ được gọi là Bodh Gaya.Từ đó về sau,Ngài đã khai thị vô số giáo pháp thích ứng với từng loại tham dục và căn tánh khác nhau của chúng ta.Có người,Ngài dạy làm thế nào có được sự chuyển sinh tốt đẹp hơn;người khác thì Ngài dạy cách để thoát khỏi vòng sinh tử luân hồi.Những điều dạy tinh thâm vi diệu chứa đựng trong những giáo pháp ấy, được gọi là Kinh (Sutra), đã vạch rõ những phương pháp và những con đường dẫn đến hạnh phúc an lạc cho tất cả chúng sanh, được thể nghiệm trực tiếp bởi Đức Phật và rất hợp với mọi lý luận, bất cứ ai cũng có thể thực hành và nghiệm chứng được.

Tại Tây Tạng,giáo nghĩa Phật giáo được biên soạn thành một bộ sách,trình bày cặn kẽ những giai đoạn của cả một hành trình tiến đến sự giác ngộ.Trong quá khứ,có rất nhiều người đã dựa vào những giáo pháp được chỉ dạy, giống nhau này để tựu thành quả vị chứng ngộ viên mãn; những giáo pháp này rất thích hợp với bất cứ ai tâm tánh vẫn còn chưa được thuần thục.Mặc dù tự thấu triệt nỗi nguy hại gây ra do chính những sai lầm của mình,ví dụ như một cơn thịnh nộ sẽ mang đến biết bao tổn thương cho mình và cho người,nhưng những lỗi lầm ấy vẫn còn đã và đang khiến chúng ta bị nghiêng ngả ảnh hưởng.Do vậy,một tâm hồn chưa được điều phục sẽ vẫn táo bạo thúc đẩy chúng ta nhảy xuống hố sâu thay vì dừng lại ngay bên bờ hố.

Phiền não và hành vi tạo tác khiến chúng ta bị cuốn hút trong vòng luân hồi tuần hoàn đau khổ; đó là “nghiệp lực” (karma).Do quan hệ giữa hành động và kinh nghiệm,chúng ta đã kéo dài đời sống với biết bao nỗi trầm bổng,nhiễu loạn và mê mờ.Cởi bỏ hoàn toàn những nghiệp lực trong quá khứ và thoát khỏi vòng nô lệ của tham,sân và si gọi là “giải thoát”hay “Niết Bàn”.Khi chúng ta thấu rõ được bản thể thanh tịnh tự nhiên của nội tâm mà có thể loại bỏ được những lầm lỗi và phiền não thì niềm an lạc tuyệt đích sẽ theo đó mà đến,và chúng ta sẽ tìm được cứu cánh giải thoát ngay chính trong vòng luân hồi đau khổ.

Nếu chúng ta có thể làm được những điều thiện,chẳng hạn như cứu lấy sanh mạng của những con vật sắp chết;chúng ta cũng có thể tích tập được những điều kiện cần thiết để được thác sanh làm người trở lại.Cuộc sống tâm linh của chúng ta sẽ tiến triển tốt đẹp trong đời vị lai nếu chúng ta chịu thực hành nghiêm chỉnh “Phật Pháp” Điều quan trọng là chúng ta nên dụng công tu hành ngay khi đang còn có nhiều cơ hội vì cuộc sống vốn dĩ rất quý giá nhưng lại khó lường trước được.Chúng ta sẽ không bao giờ biết được cơ hội như thế sẽ kéo dài đến bao lâu.

Thể theo luật nhân quả và nghiệp lực thì những gì chúng ta làm hôm nay sẽ đưa đến những kết quả trong tương lai.Tương lai chúng ta được định đoạt từ trạng thái nội tâm trước mắt,mà trạng thái nội tâm trước mắt thường là sự tràn lan của chuỗi dài phiền não.Trên hết chúng ta cần nên cầu nguyện để chứng đắc được quả vị giác ngộ giải thoát.Nếu không,cũng nên tầm cầu để thoát khỏi vòng luân hồi sanh tử.Nếu không nữa,thì ít ra cũng nên gieo những hạt giống để được thác sanh vào một cảnh giới tốt đẹp hơn,tránh khỏi đọa vào cảnh giới thấp kém hơn cảnh giới mà chúng ta đang sống hiện nay.Trong hoàn cảnh may mắn được thuận duyên nghe thấy và tu hành theo Phật pháp thì chúng ta cũng chớ đánh mất cơ hội hy hữu này.

Tuy nhiên,tự giải thoát ra mọi khổ đau không thôi chỉ mới là một phần của mục tiêu truy cầu của chúng ta.Vì ai cũng giống như chúng ta đều mong mỏi hạnh phúc, đều mong mỏi tránh được khổ đau dù là khổ đau nhỏ nhất.Tất cả chúng sanh đều bình đẳng trong khuynh hướng mưu cầu hạnh phúc và giải thoát khỏi mọi khổ đau.Một khi đã biết được đạo lý này rồi mà chúng ta vẫn chỉ mưu cầu giải thoát cho riêng mình thì sẽ làm cho sự cố gắng thành tựu giải thoát của mình biến thành nhỏ nhiệm lắm.Nhưng nếu động cơ căn bản là để giúp cho tha nhân thì chúng ta sẽ đạt được cảnh giới Nhất Thiết Trí (Omniscience); với cảnh giới này chúng ta sẽ có năng lực giúp ích lợi lạc mọi loài chúng sanh.Và tự thân chúng ta đã có thể thành PHẬT rồi vậy.

Nếu nội tâm nghèo nàn và năng lực hạn hẹp,thì làm sao chúng ta có thể đáp ứng được nguyện vọng của mọi người?Chỉ mong giúp đỡ tha nhân không thôi vẫn chưa đủ.Trước tiên chúng ta cần có khả năng cảm biết được những nguyện vọng khác nhau của mọi người. Để có được một sự nhận thức rõ ràng sáng suốt,chúng ta phải loại bỏ tất cả mọi kiến chấp đã chướng ngại và như thế chúng ta sẽ nhìn thấy mọi sự mọi vật như nó đang hiện hữu.Những chướng ngại vật của Nhất Thiết Trí chính là những dấu vết để lại từ những loại phiền não như tham dục,phẫn nộ,kiêu mạn và vô minh.Cho dù sau khi loại bỏ được những phiền não rồi thì tâm thức vẫn còn in đậm những dấu vết của nó.Nhưng vì bản thể của tâm thức vốn là trong sáng,thuần khiết nên chúng ta có thể thanh tịnh hóa triệt để nội tâm của mình.Và khi đã đạt được thể tánh sáng suốt tỉnh giác như thế,tức là đã đạt được Nhất Thiết Trí.

Đức Phật có được tất cả những đặc chất vĩ đại của Thân,Ngữ, Ý chủ yếu là do động lực của “Đại Bi Tâm”.Chủ yếu của sự tu hành của chúng ta cũng phải do tâm nguyện lợi tha.Do tri nhận được rằng mọi người đều giống như chúng ta,mong cầu vui sướng và diệt trừ đau khổ nên lòng vị tha sẽ tự nhiên hiện ứng trong tâm chúng ta. Đó là một hạt giống gieo xuống,và xuyên qua quá trình tu tập,chúng ta có thể bảo vệ và chăm bón cho nó được trưởng thành.

Tất cả mọi giáo pháp của Đức Phật đều chủ yếu giúp chúng ta phát triển lòng Đại Bi và tâm Lợi Tha.Con đường để thành Phật đã được kiến lập trên lòng Đại Bi:mong người khác có thể xa lìa đau khổ.Và điều này đã khiến chúng ta thấu triệt được rằng niềm an vui hạnh phúc của người khác chung cuộc còn tối thượng,quan yếu hơn cả hạnh phúc của chính mình; bởi vì,nếu không có người khác thì chúng ta sẽ không có cơ hội tu hành và chứng đắc quả vị giác ngộ.Tôi không dám tự xưng mình là người có kiến thức quảng bác hoặc liễu ngộ cao thâm.Tôi chỉ nhớ đến các vị sư trưởng của tôi, đã vì lòng từ ái mà truyền dạy cho tôi những giáo pháp này,vì vậy với ý nguyện tha thiết quan tâm đến sự lợi ích của muôn loài,tôi xin mang ra để hiến dâng cho quý vị những giáo pháp vi diệu đó.



[1]Nguyên tác:The WAY TO FREEDOM

[2]Một phen chết lớn, tức có nghĩa nói rằng con người hãy tự chết đi những thói hư tất xấu như lam tham,sân hận,ngu si để tái sinh một con người mới:Con người thánh thiện-sống bằng tâm hồn phật-một cuộc sống đẹp như hoa sen ở trong bùn mà không nhiễm bùn-chú thích của người viết giới thiệu.


---o0o---

Ví tính: Kim Thư - Kim Chi
Trình bày: Anna

Gửi ý kiến của bạn
Tắt
Telex
VNI
Tên của bạn
Email của bạn
29/01/2017(Xem: 9836)
Hiểu tư tưởng Duyên Khởi thì hiểu Triết học Phật giáo. Thuyết “duyên khởi” là một nền tảng triết lý rất quan trọng trong lời giáo huấn của Đức Phật. Sau khi đắc đạo, Đức Phật đã căn cứ vào lẽ sanh khởi của dukkha (những điều không hài lòng, căng thẳng, khổ đau…) mà nói lên sự liên hệ nhân quả của nó gồm có 12 thứ/ 12 chi. Ngài lập ra thuyết “duyên Khởi”.
22/12/2016(Xem: 28248)
Tất cả chúng ta đều biết rằng lời Phật dạy trong 45 năm, sau khi Ngài đắc đạo dưới cội cây Bồ Đề tại Gaya ở Ấn Độ, đã để lại cho chúng ta một gia tài tâm linh đồ sộ qua khẩu truyền cũng như bằng văn tự. Kể từ đó đến nay, con Người vĩ đại ấy và giáo lý thậm thâm vi diệu của Ngài đã vượt ra khỏi không gian của xứ Ấn và thời gian trải dài suốt 26 thế kỷ từ Á sang Âu, từ Âu sang Mỹ, từ Mỹ sang Úc, Phi Châu v.v… Như vậy đủ để cho chúng ta thấy rằng giáo lý ấy đã khế hợp với căn cơ của mọi người, dầu tu theo truyền thống Nam truyền hay Bắc truyền và ngay cả Kim Cang Thừa đi nữa cũng là những cổ xe đang chuyên chở mọi người đi đến con đường giải thoát của sanh tử luân hồi.
20/12/2016(Xem: 15384)
Đức Phật xuất hiện ở đời vì hạnh phúc chư thiên và loài người. Sau 49 năm thuyết pháp, độ sinh, ngài đã để lại cho chúng ta vô số pháp môn tu tập tùy theo căn cơ của mỗi người nhằm chuyển hóa nỗi khổ và niềm đau, mang lại hạnh phúc an vui, giải thoát, niết bàn. Chỉ xét riêng thánh quả Dự Lưu (Tu Đà Hườn), trong kinh điển Nikaya (Pali) Thế Tôn và ngài Xá Lợi Phất chỉ ra hơn năm cách[i] khác nhau tùy theo hoàn cảnh và sở trường của hành giả xuất gia cũng như tại gia để chứng đắc thánh quả đầu tiên này trong bốn thánh quả. Trong những cách này, cách dễ nhất, căn bản nhất, phổ quát nhất và hợp với đại đa số chúng đệ tử nhất
13/11/2016(Xem: 9757)
Khi bàn về Phật giáo, học giả Lương Khải Siêu đã nói: “Phật giáo là trí tín, không phải mê tín, là kiêm thiện chứ không phải độc thiện, là nhập thế chứ không phải yếm thế”. Lương Khải Siêu tiên sinh bác cổ thông kim, học thông cả cổ Trung và Tây phương, giữ một địa vị khả kính trong giới học giả. Lời nói của ông phải có căn cứ trên phương diện học lý. Thế thì căn cứ ấy là gì? Lẽ dĩ nhiên là ở trong Tam tạng giáo điển của đạo Phật. Vì mục đích của Phật Pháp là mong con người chuyển mê thành ngộ, chuyển ngu thành trí, và chuyển phàm thành Thánh chứ không gì khác.
27/08/2016(Xem: 7288)
Thức A-lại-da không phải là linh hồn. Đạo Phật bác bỏ không có linh hồn tồn tại trong một bản thể muôn loài hữu tình chúng sanh. Thức A-lại-da, là cái biết linh diệu của muôn loài, trong đó có loài người là tối thượng hơn tất cả. Cho nên Thức A-lại-da là con người thật của con người, chứ thể xác không phải là con người thật vì sau khi xác thân con người nói riêng, muôn loài chúng sanh nói chung bị chết đi, xác thịt sẽ bị bỏ lại, rồi từ từ tan rã thành đất, cát, tro, bụi bay tứ tung trong không gian, không thể mang theo qua bên kia cõi chết. Duy chỉ còn lại một mình thức A- lại-da ra đi và tồn tại trong một bản thể nào đó bên kia cõi chết.
27/08/2016(Xem: 5286)
Định nghĩa. Thực tại, nghĩa là nơi chốn, chỗ, vị trí, cũng có tên không gian. Không gian, nói một cách tổng thể, là bề mặt của vũ trụ từ bao la, rộng lớn, cho đến hạn hẹp đối với mỗi con người chúng ta đang có mặt ở một nơi nào đó, như tại : bãi biển, bờ đê, quán cà phê, phòng ngủ, phòng ăn, sân chùa, chánh điện, trong chợ, trên đoạn đường xa lộ, bãi đậu xe (parking), v.v…Trên mặt của toàn thể vũ trụ đều có vô số vạn hữu (cỏ, cây, muôn thú), và con người, gọi chung chư pháp. Kinh văn Phật nói: “Thật tướng của vạn hữu (chư pháp) là vô ngã “. Q
31/05/2016(Xem: 12960)
Chữ NHƯ được thông dụng rất phổ biến trong văn chương và lời nói thường nghiệm của các dân tộc trên thế giới và trong Phật Giáo . Trong văn chương, chữ Như được thấy ở một số trường hợp : Xác định, phủ định, tương tợ, không thực…(như ảo, như hóa) đối với các vật thể hiện thực. Lãnh vực văn chương ở lời nói và viết thành văn, thơ. Ta thường nghe dân Việt nói và viết lời xác định về chữ như : Trắng như tuyết, cứng như đá, mềm như bún, nóng như lửa đốt, lạnh như băng giá, lạnh như đồng, xưa như trái đất, xưa như Diễm, chua như chanh, nắng như lửa đổ, mặn như muối, lạc (nhạt) như nước lã, tối như đêm ba mươi, đen như mực tàu, ốm như ma trơi, bén như gươm, cao như bầu trời, rộng như biển cả, ốm như cây sậy, nhanh như chớp, lẹ như sóc, dữ như cọp, ngu như bò, ngang như cua, v.v…
28/05/2016(Xem: 12872)
Phật Tánh đó là Tánh Giác Ngộ, Tánh Phật, Bổn Tánh Lành, Mầm Lương Thiện trong mọi loài chúng sinh. Cũng gọi là Như Lai Tánh, đối nghĩa với chúng sanh tánh. Kinh Phạm võng: Tất cả chúnh sanh đều có sẵn Tánh Giác Ngộ nơi mình (Nhứt thiết chúng sanh giai hữu Phật Tánh). Nhờ có Tánh Giác Ngộ ấy, bổn tánh lành ấy chúng sanh công nhận và thấu đạt lý nhân quả, hiểu cái thể tự nhiên của mình đồng với Phật. Phật Tánh nơi ta luôn tiến chớ không phải thối, tích lũy chớ không phải tiêu vong, nó tiến tới mãi, nó khiến cho cảnh trần càng tươi đẹp, càng thuần tịnh, nó đưa lần mọi vật đến gần cái tuyệt đẹp, tuyệt cao, tuyệt diệu, tuyệt trong sáng thánh thiện. Mỗi loài đều có nơi mình Phật Tánh, dầu cho loài nào có thấp hèn tới đâu cũng có khả năng thành Phật. Không trừ loài nào, không một ai mà không có khả năng thành Phật.
30/04/2016(Xem: 17336)
Pháp Thân tiếng Sanscrit là Dharmakaya, tiếng Nhật là Hosshimbutsu, tiếng Pháp là Corps d’essence. Đó là nói về Chơn Thân, Đạo Thể, thể của Pháp Tánh. Pháp Thân của Phật có 4 Đức: Thường, Lạc, Ngã, Tịnh (4 Đức Ba La Mật). Nó không mắc vào tứ khổ (Sanh, Lão, Bệnh, Tử). Nó không lớn, không nhỏ, không trắng, không đen, không có Đạo, không vô Đạo, nó tự nhiên trường tồn, không thay đổi. Dầu Phật có ra đời hay không thì nó cũng như vậy mãi.
24/04/2016(Xem: 35275)
Qua mạng Amazon.com, tôi đặt mua cuốn sách tiếng Anh “In The Buddha’s Words” của Bhikkhu Bodhi ngay sau khi xuất bản năm 2005. Đọc sơ qua phần đầu rồi để đó. Mỗi lần đi đâu, tôi mang theo để đọc từ từ vài trang, trong lúc chờ đợi, trước khi đi ngủ. Cứ thế dần dần qua năm tháng. Rồi cũng không thẩm thấu được bao nhiêu.
facebook youtube google-plus linkedin twitter blog
Nguyện đem công đức này, trang nghiêm Phật Tịnh Độ, trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường,
nếu có người thấy nghe, đều phát lòng Bồ Đề, hết một báo thân này, sinh qua cõi Cực Lạc.

May the Merit and virtue,accrued from this work, adorn the Buddhas pureland,
Repay the four great kindnesses above, andrelieve the suffering of those on the three paths below,
may those who see or hear of these efforts generates Bodhi Mind, spend their lives devoted to the Buddha Dharma,
the Land of Ultimate Bliss.

Quang Duc Buddhist Welfare Association of Victoria
Tu Viện Quảng Đức | Quang Duc Monastery
Most Venerable Thich Tam Phuong | Senior Venerable Thich Nguyen Tang
Address: Quang Duc Monastery, 105 Lynch Road, Fawkner, Vic.3060 Australia
Tel: 61.03.9357 3544 ; Fax: 61.03.9357 3600
Website: http://www.quangduc.com
http://www.tuvienquangduc.com.au (old)
Xin gửi Xin gửi bài mới và ý kiến đóng góp đến Ban Biên Tập qua địa chỉ:
[email protected]